TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN LÃNG, TỈNH LẠNG SƠN
BẢN ÁN 110/2023/HS-ST NGÀY 24/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 24 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh S, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 108/2023/TLST-HS ngày 10 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 105/2023/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2023, đối với bị cáo:
Hoàng Như Q, sinh ngày 07 tháng 4 năm 1971 tại huyện V, tỉnh S. Nơi cư trú: Khu A, thị trấn N, huyện V, tỉnh S; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn B, sinh năm 1941 (đã chết năm 1989) và bà Chu Thị L, sinh năm 1941; có vợ: Mông Thị N, sinh năm 1981 và 01 con sinh năm 2006; tiền án: Không có, tiền sự: Không có; nhân thân: Chưa bị kết án, chưa bị xử lý hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật; bị tạm giữ từ ngày 15-9-2023, tạm giam ngày 21-9-2023 đến nay; có mặt.
- Người tham gia tố tụng khác:
Người chứng kiến: Bà Lý Thị B; vắng mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 11 giờ 00 phút ngày 15-9-2023, tổ công tác Công an thị trấn N phối hợp với Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và ma tuý làm nhiệm vụ trên đường tỉnh lộ 231, đoạn thuộc khu A, thị trấn N, huyện V, tỉnh S phát hiện, bắt quả tang Hoàng Như Q, sinh năm 1971, trú tại khu A, thị trấn N, huyện V, tỉnh S có hành vi tàng trữ trái phép 02 gói giấy màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng nghi là ma túy Heroine. Hoàng Như Q khai nhận chất bột màu trắng bị thu giữ là ma túy Heroine, mục đích tàng trữ để sử dụng.
Tại Kết luận giám định số 943/ KL-KTHS ngày 19 tháng 9 năm 2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh S, kết luận: Chất bột màu trắng thu giữ của Hoàng Như Q là ma túy Heroine có tổng khối lượng là 0,119 gam (đã trừ bì).
Tại Cơ quan điều tra, Hoàng Như Q khai nhận: Khoảng 10 giờ 40 phút, ngày 15-9-2023, Hoàng Như Q một mình bắt xe khách từ nhà tại khu A, thị trấn N, huyện V, tỉnh S đến khu vực lô cốt thuộc khu B, xã T, huyện V, tỉnh S mục đích mua ma túy Heroine về sử dụng. Tại đây, Hoàng Như Q gặp, hỏi và mua 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) ma túy với một nam thanh niên khoảng 30 tuổi (Hoàng Như Q không biết họ tên, địa chỉ) được 02 gói giấy màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng là chất ma túy Heroine. Hoàng Như Q nhận lấy ma túy, cầm trong lòng bàn tay trái và bắt xe khách đi về nhà. Khi đi đến đoạn thuộc khu A, thị trấn N, huyện V, tỉnh S, Hoàng Như Q xuống xe đi bộ trên đường với mục đích tìm chỗ vắng người để sử dụng ma túy, nhưng chưa kịp sử dụng thì bị lực lượng C ông an huyện V, tỉnh S bắt quả tang.
Lời khai của bị cáo Hoàng Như Q phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, tang vật thu giữ được, kết luận giám định ma túy, lời khai của người chứng kiến và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đây là những chứng cứ đã thu thập được trong quá trình điều tra, truy tố, đảm bảo tính khách quan và được thu thập hợp pháp, là chứng cứ khẳng định bị cáo Hoàng Như Q thực hiện hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy như đã nêu trên.
Tại bản Cáo trạng số 104/CT-VKS ngày 08 tháng 11 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh S truy tố bị cáo Hoàng Như Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa bị cáo Hoàng Như Q thừa nhận toàn bộ hành vi; do bị cáo nghiện ma tuý nên đã mua 02 gói với giá 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) về sử dụng cho bản thân.
Tại phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh S giữ nguyên nội dung Cáo trạng truy tố đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hoàng Như Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đề nghị xử phạt bị cáo Hoàng Như Q từ 01 (một) năm 03 (ba) tháng đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, do bị cáo không có tài sản riêng.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đề nghị Hội đồng xét xử tuyên: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì có chữ viết tay “QT Hoàng Như Q” (cũ), có chữ ký cùng tên của giám định viên Hoàng Mạnh H, trợ lý giám định và các hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự tại phần giáp lai mới, bên trong có 01 (một) gói giấy (cũ) đựng 0,070 gam chất ma túy Heroin (phần hao hụt do dùng làm mẫu giám định hết) và các vỏ bao gói cũ.
Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về trình tự, thủ tục tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án, hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đã được tống đạt các văn bản quyết định tố tụng và thực hiện các quyền, nghĩa vụ theo đúng trình tự thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng đã thực hiện đều có giá trị pháp lý, đúng theo quy định của pháp luật.
[2] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên toà vắng mặt người chứng kiến. Xét thấy người chứng kiến đã có lời khai trong hồ sơ vụ án; do vậy việc vắng mặt người chứng kiến không ảnh hưởng đến việc xét xử, căn cứ Điều 296 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.
[3] Tại phiên tòa bị cáo Hoàng Như Q khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai người chứng kiến và phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 15-9-2023; Kết luận giám định số 943/KL-KTHS ngày 19-9-2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh S, ngoài ra phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ xác định: Hồi 11 giờ 00 phút ngày 15-9-2023, tại đường tỉnh lộ 231 thuộc khu A, thị trấn Na Sầm, huyện V, tỉnh S, tổ công tác Công an thị trấn N phối hợp với Đội cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và ma tuý, Công an huyện V phát hiện, bắt quả tang Hoàng Như Q có hành vi tàng trữ trái phép 0,119 gam chất ma túy Heroin, xác định được mục đích tàng trữ của Hoàng Như Q là để sử dụng trái phép. Vì vậy có đủ cơ sở kết luận bị cáo Hoàng Như Q đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, theo như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh S đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội và thuộc trường hợp phạm tội nghiêm trọng, đã xâm phạm quyền độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu cho xã hội, là một trong các nguyên nhân gây phát sinh các tệ nạn xã hội và tội phạm khác, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và có đủ năng lực nhận thức hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn bất chấp và cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, cần phải xử phạt bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.
[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo có bố đẻ là ông Hoàng Văn B, mẹ đẻ là bà Chu Thị L được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba. Do đó bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
[7] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, bị cáo còn có thể bị phạt bổ sung là hình phạt tiền từ 5.000.000 (năm triệu) đồng đến 500.000.000 (năm trăm triệu) đồng. Tuy nhiên căn cứ vào biên bản xác minh ngày 27-10-2023 tại Uỷ ban nhân dân thị trấn N, huyện V, tỉnh S và phần xét hỏi công khai tại phiên tòa, thấy rằng bị cáo không có công việc, không có thu nhập ổn định, đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhà ở và đất vườn, tuy nhiên những diện tích đất này hiện nay vợ và con bị cáo đang sử dụng và canh tác. Do đó Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[8] Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì có chữ viết tay “QT Hoàng Như Q” (cũ), có chữ ký cùng tên của giám định viên Hoàng Mạnh H, trợ lý giám định và các hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự tại phần giáp lai mới. Bên trong có 01 (một) gói giấy (cũ) đựng 0,070 gam chất ma túy Heroin (phần hao hụt do dùng làm mẫu giám định hết) và các vỏ bao gói cũ vì là vật cấm tàng trữ, lưu hành, không có giá trị theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
[9] Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo Hoàng Như Q tại khu vực cửa khẩu T thuộc xã T, huyện V, tỉnh S do không xác định được họ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, làm rõ.
[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
[11] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, hình phạt, về việc xử lý vật chứng và giải quyết toàn bộ vụ án là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[12] Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015;
Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
Căn cứ khoản 2 Điều 136; Điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hoàng Như Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Về hình phạt - Hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Hoàng Như Q 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ ngày 15-9-2023.
- Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Hoàng Như Q.
3. Về xử lý vật chứng Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì có chữ viết tay “QT Hoàng Như Q” (cũ), có chữ ký cùng tên của giám định viên Hoàng Mạnh H, trợ lý giám định và các hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự tại phần giáp lai mới. Bên trong có 01 (một) gói giấy (cũ) đựng 0,070 gam chất ma túy Heroin (phần hao hụt do dùng làm mẫu giám định hết) và các vỏ bao gói cũ.
(Các vật chứng trên hiện đang được lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện V, tỉnh S theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 09 tháng 11 năm 2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện V, tỉnh S và Chi cục thi hành án dân sự huyện V, tỉnh S).
4. Về án phí: Bị cáo Hoàng Như Q phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 110/2023/HS-ST
Số hiệu: | 110/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Văn Lãng - Lạng Sơn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/11/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về