Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 110/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 110/2021/HS-ST NGÀY 11/10/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 10 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 162/2021/TLST-HS ngày 18 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 158/2021/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

Phạm Văn H, sinh năm 1963 tại Hà Nội; nơi thường trú: Phố YT, phường NT, quận LB, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Bảo vệ; trình độ văn hóa: 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn Ngh (đã chết) và bà Hoàng Thị N (đã chết) ; bị cáo có vợ đã ly hôn và có 01 người con sinh năm 1994; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

- Ngày 28/02/1980, bị Công an quận Ba Đình, thành phố Hà Nội bắt về hành vi trộm cắp tài sản của công dân.

- Ngày 10/11/1981, bị Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt hành chính bằng hình thức tập trung cải tạo với thời hạn 03 năm về hành vi cưỡng đoạt tài sản.

- Ngày 03/9/1985, bị Công an huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội áp dụng biện pháp đưa đi tập trung cải tạo 03 năm về hành vi trộm cắp tài sản của công dân.

- Ngày 15/7/1989, bị Công an huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội bắt về hành vi trốn khỏi nơi giam.

- Ngày 30/7/1993, bị Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 12 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích (Bản án số 294/HSPT).

- Ngày 21/5/1997, bị Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội xử phạt 06 năm tù về tội mua bán trái phép chất ma túy và tổ chức dùng ma túy (Bản án số 115/HSST) đã chấp hành xong ngày 10/2/2002;

- Ngày 11/12/2015, bị Tòa án nhân dân thị xã (nay là thành phố) Dĩ An, tỉnh Bình Dương áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 16 tháng, chấp hành đến ngày 23/01/2017 được miễn chấp hành thời gian còn lại.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 14/01/2021 và bị tạm giữ chuyển sang tạm giam cho đến nay; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Văn H là đối tượng nghiện ma túy từ năm 2006, loại ma túy H thường sử dụng là ma túy đá (Methamphetamine).

Khoảng 13 giờ ngày 10/01/2021, do cần ma túy sử dụng nên H thuê xe ôm đến khu vực cầu Nguyễn Văn Cừ thuộc Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh tìm gặp đối tượng tên Th (không rõ nhân thân, lai lịch) là người bán ma túy cho H nhiều lần để mua 1.800.000 đồng ma túy. H giao tiền cho Th xong đứng chờ khoảng 30 phút sau thì Th giao 01 gói nylon miệng kéo dính bên trong có chứa chất ma túy. H giấu vào người rồi thuê xe ôm về phòng trọ . H sử dụng một ít chất ma túy phần còn lại H chia thành 02 phần bỏ trong gói nylon miệng kéo dính để trên bàn. Đến khoảng 23 giờ ngày 14/01/2021, H tiếp tục sử dụng ma túy vừa sử dụng xong thì Công an phường KhB tiến hành kiểm tra hành chính khu trọ phát hiện trong phòng của H có 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy và 02 gói nylon chứa chất tinh thể màu trắng để trên bàn. Công an phường KhB tiến hành niêm phong chất tinh thể màu trắng thu giữ từ H và đưa H về Công an phường KhB lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng gồm: 02 gói nylon hàn kín miệng bên trong c ó chứa chất tinh thể màu trắng (đã được niêm phong); 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy.

Tại Kết luận giám định số 29/MT-PC09 ngày 20/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận mẫu tinh thể màu trắng, gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 4,8475 gam (M1) và 0,7393 gam (M2).

Cáo trạng số 166/CT-VKS.TU ngày 18/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã TU, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Phạm Văn H về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt, bị cáo Phạm Văn H từ 06 năm đến 07 năm tù.

Đối với đối tượng tên Th đã bán ma túy cho H. Do chưa xác định nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

Số ma túy hoàn lại sau giám định và bộ dụng cụ sử dụng ma túy đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Trong phần trình bày lời nói sau cùng bị cáo không trình bày.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Tân Uyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi cất giấu ma túy loại Methamphetamine khối lượng 5,5868 gam để sử dụng thì bị phát hiện tại phòng số 16, khu nhà trọ Nguyễn Thanh L thuộc khu phố KhL, phường KhB, thị xã TU, tỉnh Bình Dương. Hành vi này của bị cáo đã phạm vào tội tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Khi thực hiện hành vi cất giấu ma túy, bị cáo nhận thức được đây là hành vi vi phạm pháp luật, biết việc sử dụng, mua bán, tàng trữ chất ma túy bị Nhà nước cấm nhưng bị cáo vẫn thực hiện nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu cá nhân. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã TU truy tố bị cáo về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách của Nhà nước trong quản lý, sử dụng chất ma túy. Bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật và sẽ bị xử lý nhưng vì muốn có ma túy sử dụng, thỏa mãn cơn nghiện nên đã cố ý phạm tội. Do đó, cần có mức hình phạt tương xứng đối với bị cáo để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không vi phạm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi bị phát hiện, quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[7] Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã TU đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo như trên là phù hợp với tính chất, mức độ; các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo.

[8] Đối với đối tượng đã bán ma túy cho bị cáo, hiện chưa xác định được lai lịch nên đề nghị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã TU tiếp tục xác minh điều tra để xử lý theo quy định pháp luật.

[9] Về xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp: Đối với số ma túy hoàn lại sau giám định là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[10] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phạm Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Về trách nhiệm hình sự: Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Phạm Văn H 06 (Sáu) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14-01-2021.

2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu, tiêu hủy 5,3475 gam chất ma túy Methamphetamine hoàn lại sau giám định được niêm phong trong bì thư ký hiệu 29/PC09 ngày 20/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương.

Tịch thu, tiêu hủy 01 (Một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 24/8/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương).

3. Về án phí sơ thẩm: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Phạm Văn H phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 110/2021/HS-ST

Số hiệu:110/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Tân Uyên - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:11/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về