Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 109/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 109/2024/HS-ST NGÀY 17/04/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:114/2024/TLST-HS, ngày 02 tháng 4 năm 2024, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 112/2024/QĐXXST – HS, ngày 04 tháng 4 năm 2024 đối với bị cáo:

Quàng Văn N; Tên gọi khác: Không, sinh năm: 1995, tại tỉnh Đ; HKTT: Bản N H, xã P, huyện Đ, tỉnh Đ; Cư trú tại: Bản N H, xã P, huyện Đ, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: N; Quốc tịch: Việt N; Tôn giáo: Không; con ông: Quàng Văn K, sinh năm 1965 và bà Lò Thị A, sinh năm 1972(đã chết); Bị cáo chưa có vợ con; Tiền sự: Không; Tiền án: Không;

Nhân thân: Ngày 14/5/2018, Bị cáo N bị Tòa án nhân dân huyện Đ xử phạt 15 tháng tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy ( đã được xóa án tích); tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/ 01/2024 đến ngày xét xử; Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 09 giờ 50 phút, ngày 21/ 01/2024, Tổ công tác, Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và ma túy Công an huyện Đ, tỉnh Đ phối hợp với Công an xã P đang làm nhiệm vụ tại khu vực bản N H, xã P, huyện Đ, tỉnh Đ thì phát hiện trong nhà của Quàng Văn N có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác, Công an huyện Đ đã vào nhà N yêu cầu kiểm tra N thì phát hiện trong túi quần bên trái của N đang mặc có 01 lọ nhựa màu trắng bên trong có 10 viên nén màu hồng nghi là Methamphetamine và 01gói nilon màu trắng bên trong có các cục bột màu trắng nghi là Heroine. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ các cục bột màu trắng nghi là Heroine và 10 viên nén màu hồng nghi là Methamphetamine.

Tại Cơ quan điều tra, Quàng Văn N khai nhận: khoảng 08 giờ 00 phút, ngày 21/01/2024, N đi bộ từ nhà ở bản N H, xã P, huyện Đ, tỉnh Đ đi ra đầu bản N H, xã P, huyện Đ, tỉnh Đ thì N gặp 01 người đàn ông dân tộc Thái khoảng 40 tuổi, không biết tên và địa chỉ ở đâu; N đã mua của người đàn ông đó 01 gói nilon màu trắng bên trong có các cục bột màu trắng là Heroine và 10 viên nén màu hồng là Methamphetamine trị giá: 300.000 đồng đem về cho vào lọ nhựa màu trắng để sử dụng dần thì bị bắt quả tang.

Biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng, ngày 21/01/2024 thì vật chứng thu giữ của Quàng Văn N gồm: 10 viên nén màu hồng có khối lượng: 1,07g, và các cục bột màu trắng có khối lượng: 0,12g, đồng thời gửi toàn bộ làm mẫu giám định; bản kết luận giám định số: 311/KL- KTHS, ngày 27/01/2024 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ, kết luận: 0,12 gam là Heroine và hoàn lại mẫu vật là 0,08g Heroine và 1,07gam là Methamphetamine và hoàn lại mẫu vật là 0,93g Methamphetamine.

Cáo trạng số 55/CT – VKSHĐB, ngày 01/4/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã truy tố bị cáo Quàng Văn N về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy " theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Quàng Văn N khai nhận: Hồi 09 giờ 50 phút, ngày 21/01/ 2024, N đang tàng trữ trái phép: 1,07 gam Methamphetamine và 0,12 g Heroine với mục đích để sử dụng thì bị Tổ công tác, Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và ma túy Công an huyện Đ và Công an xã P, huyện Đ phát hiện bắt quả tang như nội dung cáo trạng đã nêu.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo về tội danh, điều luật đã áp dụng như nội dung bản Cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử, tuyên bố bị cáo Quàng Văn N phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy; áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Quàng Văn N từ 2 năm tù đến 02 năm 04 tháng tù; Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu để tiêu hủy: 0,93g Methamphetamine, 0,08g Heroine còn lại sau giám định và 01 lọ nhựa màu trắng. Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Lời nói sau cùng, Quàng Văn N thừa nhận phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xác định tội danh: Qua phần tranh tụng công khai tại phiên tòa, bị cáo Quàng Văn N đã thành khẩn thừa nhận vào hồi 09 giờ 50 phút, ngày 21/01/2024, đang tàng trữ trái phép 1,07g Methamphetamine và 0,12g Heroine với mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị Tổ công tác,Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và ma túy Công an huyện Đ và Công an xã P, huyện Đ phát hiện bắt quả tang. Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng ngày 21/01/2024 và kết luận giám định số: 311/KL- KTHS, ngày 27/01/2024 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ đã kết luận:

0,93g là Methamphetamine và 0,12g là Heroine và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Do đó, hành vi của Quàng Văn N tàng trữ trái phép: 1,07g Methamphetamine và 0,12g Heroine, tổng cộng là 1,19g ma túy với mục đích để sử dụng, đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy với lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận Quàng Văn N đã phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại khoản 1 Điều 249 BLHS quy định: Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

......

i) có 2 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng...quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này".

Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự nên phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình gây ra cho xã hội.

[2] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân và hình phạt đối với bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử xem xét là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo đã được xóa án. Trên cơ sở xem xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo; Hội đồng xét xử xét thấy cần có hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo và cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội để bị cáo sửa chữa tội lỗi của mình, nhằm sau này trở thành công dân có ích cho xã hội.

[3] Hình phạt bổ sung, qua xác minh thì bị cáo thực sự khó khăn không có điều kiện thi hành hình phạt bổ sung bằng tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[ 4] Về vật chứng: Hội đồng xét xử xét thấy: 1,07g Methamphetamine đã trích mẫu giám định là 0,14g và hoàn lại 0,93g Methamphetamine và 0,12g Heroine đã trích mẫu giám định là 0,04g và hoàn lại 0,08g Heroine là vật chứng của vụ án sau giám định thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy. 01 lọ nhựa màu trắng không có giá trị nên tịch thu tiêu hủy.

[ 5] Đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ về áp dụng pháp luật và hình phạt là có cơ sở pháp luật nên Hội đồng xét xử cần xem xét chấp nhận.

[ 6] Về tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thấy rằng: Các hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự nên trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo không có ý kiến khiếu nại về các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[ 7] Về án phí: Bị cáo Quàng Văn N là người dân tộc thiểu số sống ở bản có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

[ 8] Những vấn đề khác: Nguồn gốc số ma túy, bị cáo khai mua của một người đàn ông dân tộc Thái khoảng 40 tuổi, không biết tên và địa chỉ ở đâu nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ không có cơ sở điều tra, làm rõ là phù hợp với pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm i Khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

1. Tuyên bố: Bị cáo Quàng Văn N phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Quàng Văn N 02(hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/01/2024.

3. Vật chứng: Tịch thu để tiêu hủy: 0,93g Methamphetamine, 0,08g Heroine là vật chứng còn lại của vụ án sau giám định và 01 lọ nhựa màu trắng( theo biên bản bàn giao vật chứng ngày 01/4 /2024 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ với Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ).

4. Án phí: Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

5. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

102
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 109/2024/HS-ST

Số hiệu:109/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:17/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về