Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 109/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHÚ QUỐC, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 109/2023/HS-ST NGÀY 06/09/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 06 tháng 9 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Q, tỉnh G xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 100/2023/TLST - HS ngày 18 tháng 8 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 100/2023/QĐXXST – HS ngày 23 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Hà Thanh S, sinh năm 1996; Giới tính: Nam; Tại: Quận Đ Đ, H N; Nơi cư trú: số 145 Ng L B, phường Q T, quận Đ Đ, thành phố H N; Nghề nghiệp: Tài xế; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hà Vĩnh L và bà Trương Thị Minh X; Bị cáo chưa có vợ; Tiền án, Tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/5/2023.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 15 phút ngày 09/5/2023, Công an thành phố Q đến kiểm tra hành chính phòng ….. nhà nghỉ G S thuộc tổ 3, ấp C S, xã H N, thành phố Q, tỉnh G mà Hà Thanh S đang thuê ở. Quá trình kiểm tra lực lượng Công an phát hiện, bắt quả tang và thu giữ bịch nylon màu bạc có rãnh gài, bên trong bịch nylon có 02 (hai) viên nén màu cam, hình bầu dục và hai cây thảo mộc khô loại (cần sa), không rõ hình dạng, được thu giữ trên bàn, cạnh đầu giường ngủ trong phòng 401 mà S thuê ở. Hà Thanh S khai nhận bịch nylon trên bàn bên trong là ma túy loại thuốc lắc và cần sa là của S mua về nhằm mục đích sử dụng cá nhân nên S bị lập biên bản phạm tội quả tang và bị tạm giữ hình sự.

S khai nhận vào khoảng 15 giờ, ngày 09/05/2023, do muốn sử dụng trái phép chất ma túy nên S đi bộ đến khu vực ngã ba thuộc ấp Gành Dầu, xã Gành Dầu, thành phố Q thì gặp 01 người đàn ông tên T (chưa rõ nhân thân), qua nói chuyện thì S biết T có bán ma túy nên S hỏi mua 1.000.000đ (Một triệu đồng) ma túy, gồm 02 (hai) viên thuốc lắc và phần còn lại là ma túy loại cần sa. T đồng ý và bán cho S 02 (hai) viên thuốc lắc màu cam và 02 (hai) cây thảo mộc khô loại cần sa, để bên trong một bịch nylon màu bạc. Sau khi mua được ma túy, S đem bịch ma túy vừa mua được cất giấu trong người. Đến khoảng 14 giờ 30 phút, ngày 11/5/2023, Hà Thanh S lấy bịch ma túy, gọi xe taxi đi một mình đến nhà nghĩ G S, thuộc tổ 03, ấp C S, xã H N, TP. P Q, tỉnh G. Tại đây, S thuê phòng ….. để nghỉ qua đêm và đem bịch ma túy để trên bàn cạnh đầu giường. Đến 09 giờ, ngày 12/5/2023, S lấy một ít ma túy loại Cần sa ra sử dụng, phần Cần sa còn lại S bỏ lại vào bịch nylon và để trên bàn cạnh đầu giường thì bị bắt quả tang.

* Vật chứng thu giữ:

+ 01 (một) bịch nylon màu bạc có rãnh gài, kích thước 08cm x 13cm bên trong bịch nylon có chứa 02 (hai) viên nén màu cam, hình bầu dục và hai cây thảo mộc khô, không rõ hình dạng, đã được niêm phong.

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Redmi màu đen, số imei 1: 86119106056100, số imei 2: 86119060656118, bể màn hình trước và bể canera mặt sau, đã qua sử dụng.

* Kết luận giám định số: 488/KL-KTHS ngày 20/5/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh G, kết luận:

+ 02 (hai) viên nén màu cam, hình bầu dục chứa trong 01 (một) bịch nylon được niêm phong gửi đi giám định là chất ma túy, loại MDMA. Khối lượng mẫu gửi giám định là 0,8128 gam.

+ Thảo mộc khô, không rõ hình dạng được niêm phong gửi đi giám định là chất ma túy, loại cần sa. Khối lượng mẫu gửi giám định là 3,7762 gam.

MDMA là chất ma túy nằm trong danh mục IB, STT 11. Nghị định 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ.

Cần sa là chất ma túy nằm trong danh mục ID, STT I, Nghị định 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8 2022 của Chính phủ.

Bản cáo trạng số: 105/CT–VKSPQ ngày 14 tháng 8 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Q đã truy tố bị cáo Hà Thanh S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà: Kiểm sát viên tham gia phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Hà Thanh S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Hà Thanh S từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 2, 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tịch thu tiêu huỷ: Mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong trong 01 (một) phong bì có ký hiệu vụ số: 488/2023, bên trong là một bịch nylon đựng mẫu, gồm:

+ 01 (một) viên nén màu cam, hình bầu dục và chất bột màu cam còn lại sau giám định có khối lượng là 0,7332 gam;

+ Thảo mộc khô, không rõ hình dạng còn lại sau giám định có khối lượng là 2,3914 gam (được đựng trong một bịch nylon);

- Trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động hiệu Redmi màu đen, số imei 1: 86119106056100, số imei 2: 86119060656118, bể màn hình trước và bể canera mặt sau, đã qua sử dụng, do không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo;

Đối với người đàn ông tên T, bán ma túy cho Hà Thanh S, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Q tiếp tục điều tra làm rõ sẽ đề nghị xử lý sau.

Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến gì đối với kết luận giám định số:

488/KL-KTHS ngày 20/5/2023 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh G và bản cáo trạng của Viện kiểm sát, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã công bố và không tranh luận gì đối với bản luận tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng của bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Q, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Q, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai nhận tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ xác định: Vào khoảng 15 giờ 15 phút, ngày 12/05/2023, Công an thành phố Q kiểm tra hành chính nhà nghỉ G S tại phòng số ….., thuộc tổ 03, ấp C S, xã H N, TP. P Q, tỉnh G thì phát hiện bắt quả tang Hà Thanh S đang tàng trữ 0,8128 gam loại ma túy MDMA và 3,7762 gam chất ma túy loại cần sa. Số ma tuý này S mua của một người đàn ông tên T (không rõ nhân thân) vào ngày 09/5/2023 để sử dụng cho bản thân.

Căn cứ khoản 2 Điều 5 Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của chính phủ về tính tỷ lệ phần trăm tổng khối lượng của hai chất ma tuý bị cáo tàng trữ là 53,9%. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Q truy tố bị cáo Hà Thanh S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội và phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và nhận thức được hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội và đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy. Việc sử dụng ma tuý gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương, góp phần gia tăng tệ nạn xã hội và các tội phạm khác nhưng chỉ vì để thỏa mãn nhu cầu của bản thân mà bị cáo đã bất chấp pháp luật, cố ý thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần có mức án nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, đó là cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm răn đe, cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội đối với loại tội phạm này.

[4]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5]. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 2, 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên:

- Tịch thu tiêu huỷ: Mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong trong 01 (một) phong bì có ký hiệu vụ số: 488/2023, bên trong là một bịch nylon đựng mẫu, gồm:

+ 01 (một) viên nén màu cam, hình bầu dục và chất bột màu cam còn lại sau giám định có khối lượng là 0,7332 gam;

+ Thảo mộc khô, không rõ hình dạng còn lại sau giám định có khối lượng là 2,3914 gam (được đựng trong một bịch nylon);

- 00Trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động hiệu Redmi màu đen, số imei 1: 86119106056100, số imei 2: 86119060656118, bể màn hình trước và bể canera mặt sau, đã qua sử dụng do không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

[6.]. Đối với người đàn ông tên T, bán ma túy cho Hà Thanh S, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Q tiếp tục điều tra làm rõ sẽ đề nghị xử lý sau.

[7]. Quan điểm truy tố của Viện kiểm sát: Tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt và xử lý vật chứng mà vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8]. Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Trách nhiệm hình sự:

- Áp dụng: điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

- Tuyên bố: Hà Thanh S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt: Hà Thanh S 01 (Một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam ngày 12/5/2023.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 2, 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên:

- Tịch thu tiêu huỷ: Mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong trong 01 (một) phong bì có ký hiệu vụ số: 488/2023, bên trong là một bịch nylon đựng mẫu, gồm:

+ 01 (một) viên nén màu cam, hình bầu dục và chất bột màu cam còn lại sau giám định có khối lượng là 0,7332 gam;

+ Thảo mộc khô, không rõ hình dạng còn lại sau giám định có khối lượng là 2,3914 gam (được đựng trong một bịch nylon);

- Trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động hiệu Redmi màu đen, số imei 1: 86119106056100, số imei 2: 86119060656118, bể màn hình trước và bể canera mặt sau, đã qua sử dụng do không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo;

(Tang vật trên đã được chuyển giao cho Chi cục thi hành án Dân sự thành phố Q theo quyết định chuyển giao vật chứng số 81/QĐ-VKSPQ- HS ngày 14/8/2023 và Biên bản giao nhận vật chứng ngày 24/8/2023)

3. Về án phí: Căn cứ Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

22
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 109/2023/HS-ST

Số hiệu:109/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phú Quốc - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:06/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về