TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 108/2021/HS-PT NGÀY 15/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 15 tháng 11 năm 2021 tại Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử phúc thẩm c ông khai vụ án hình sự phúc thẩm t hụ lý số 94/2021/TLPT-HS ngày 28 tháng 10 năm 2021 đối với bị cáo Nguyễn Thị M do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị M đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 35/2021/HS-ST ngày 21/09/2021 của Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.
- Bị cáo kháng cáo:
Nguyễn Thị M, sinh ngày 24 tháng 8 năm 1987 tại thành phố Đà Nẵng. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ x phường Q, quận S, thành phố Đà Nẵng; nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn P và bà Đinh Thị S (đều còn sống) . Bị cáo có chồng là Phạm Viết D và 03 con (con lớn nhất sinh năm 2005, nhỏ nhất sinh năm 2018); Tiền án, tiền sự: Không;
Nhân thân:
- Năm 2014, bị Công an quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng xử phạt hành chính về hành vi Trộm cắp tài sản (theo Quyết định số 24/QĐ-XPHC ngày 19/5/2014).
- Năm 2015, bị Công an phường Hòa Q, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng xử phạt hành chính về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy (theo Quyết định số 13/QĐ-XPHC ngày 16/01/2015).
- Năm 2015, bị UBND phường Hòa Quý, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng áp dụng biện pháp Giáo dục tại xã, phường về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy (theo Quyết định số 02/QĐ-UBND ngày 19/3/2015).
- Năm 2016, bị Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời hạn 12 tháng về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy (theo Quyết định số 06/2016/QĐ-TA ngày 04/02/2016).
Bị cáo bị bắt giam từ ngày 11/6/2021. Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 12 giờ ngày 11/6/2021, Nguyễn Thị M đang ở nhà thì có một người bạn tên Q (chưa xác định nhân thân, lai lịch) gọi vào thuê bao số 0779674595 của M hẹn đến dãy nhà trọ đối diện khu công nghiệp DN, thị xã B, tỉnh Quảng Nam để cho M ma túy đem về sử dụng. Sau đó M điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha, loại Sirius, màu đỏ, BKS: 92Dx-315.xx đến gặp Q. Q cho M 02 gói ma túy và 01 ống thủy tinh, M cất giấu ma túy vào giữa khe hở của điện thoại và ốp lưng điện thoại, còn ống thủy tinh M bỏ vào cốp x e cùng với ống hút bằng nhựa và 02 bật lửa ( M đã mua trước đó) rồi về nhà. Đến 20 giờ 45 phút cùng ngày, M điều khiển xe mô tô BKS: 92Dx-315.xx đến khu vực trước cổng chợ N thuộc tổ 2x, phường H, quận S, thành phố Đà Nẵng thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra C ông an quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng bắt quả tang. Thu giữ của Nguyễn Thị M 02 gói ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng A1: 1,213 gam cùng một số đồ vật khác.
Với nội dung nêu trên, tại Bản án sơ thẩm số 35/2021/HS -ST ngày 21/9/2021 của Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng đã quyết định:
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Th ị M 02 (hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11/6/2021.
Ngoài ra, Bản án còn tuyên về phần xử lý vật chứng, án phí và thông báo về quyền kháng cáo bản án.
Ngày 28/9/2021, bị cáo Nguyễn Thị M có đơn kháng cáo với nội dung: Cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 02 năm tù giam là quá nặng, x in cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Tại phiên tòa phúc thẩm , bị cáo Nguyễn Thị M thừa nhận hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm đã kết luận , giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng có quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau:
Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị M theo đúng thủ tục và trong thời hạn kháng cáo nên đảm bảo hợp lệ.
Về nội dung: Xét nội dung đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị M thì thấy, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xử phạt bị cáo mức án 02 năm tù là phù hợp. Tại giai đoạn phúc thẩm, bị cáo không đưa ra tình tiết nào mới. Vì vậy, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị M, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm có đủ căn cứ để khẳng định:
[1]. Khoảng 20 giờ 45 phút ngày 11/6/2021, tại khu vực trước cổng chợ N thuộc tổ 2x, phường H, quận S, thành phố Đà Nẵng, Nguyễn Thị M đã có hành vi cất giữ 1,213 gam ma túy, loại Methamphetamine vào giữa khe hở của điện thoại và ốp lưng điện thoại, mục đích để sử dụng thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng phát hiện, bắt quả tang. Vì vậy, bản án hình sự sơ thẩm số 35/2021/HS -ST ngày 21/9/2021 của Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội .
[2]. Xét nội dung đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Thị M, Hội đồng xét xử thấy rằng:
Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị xử phạt hành chính về các hành vi: trộm cắp tài sản, sử dụng trái phép chất ma túy. Cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất của vụ án, mức độ của hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, xử phạt bị cáo mức án 02 năm tù là phù hợp, không nặng. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm .
[3]. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4]. Bị cáo Nguyễn Thị M phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
I. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 35 6 Bộ luật Tố tụng Hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị M, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Nguyễn Thị M: 02 (hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời gian thụ hình tính từ ngày bị bắt 11/6/2021.
II. Về án phí: Căn cứ Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Bị cáo Nguyễn Thị M phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
III. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 108/2021/HS-PT
Số hiệu: | 108/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/11/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về