Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 107/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VIỆT YÊN, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 107/2021/HS-ST NGÀY 09/08/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 96/2021/TLST-HS ngày 24/6/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 115/2021/QĐXXST-HS ngày 27/7/2021 đối với các bị cáo:

1-Nguyễn Văn Thoại, sinh năm 1998.

Trú tại: Thôn Q, xã T, huyện V, tỉnh Bắc Giang.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn Đ và bà Đỗ Thị L; vợ: Diêm Thị H; con: Có 01 con sinh năm 2019.

- Tiền án, tiền sự, nhân thân: Không.

- Bị bắt quả tang, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/01/2021 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam- Công an tỉnh Bắc Giang. Được trích xuất, có mặt tại phiên tòa.

2- Nguyễn Văn H, sinh năm 1998.

Trú tại: Thôn Q, xã T, huyện V, tỉnh Bắc Giang.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn D và bà Đỗ Thị L; vợ, con: Chưa có.

- Tiền án, tiền sự, nhân thân: Không.

- Bị bắt quả tang, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/01/2021 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam- Công an tỉnh Bắc Giang. Được trích xuất, có mặt tại phiên tòa.

-Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1997. Có mặt.

Địa chỉ: Thôn V, xã C, huyện G, tỉnh Bắc Ninh.

-Người làm chứng:

1-Anh Đàm Văn N, sinh năm 1992. Vắng mặt 2-Anh Đàm Văn C, sinh năm 1993. Vắng mặt.

Cùng địa chỉ: Thôn Q, xã T, huyện V, tỉnh Bắc Giang.

- Người chứng kiến:

Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1959. Vắng mặt. Địa chỉ: Thôn Q, xã T, huyện V, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 31/12/2020 tại sân bóng thôn Q, xã T, huyện V,tỉnh Bắc Giang; Công an xã Trung Sơn, huyện Việt Yên phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Văn T sinh năm 1998 và Nguyễn Văn H sinh năm 1998, đều trú quán: thôn Q, xã T, huyện V, tỉnh Bắc Giang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ gồm:

-Thu tại mặt thành mương nước ở sân bóng: 03 túi nilon màu trắng có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu xanh (trong đó: 01 túi đựng chất tinh thể màu trắng và 01 viên nén màu hồng đỏ; 02 túi đều đựng tinh thể màu trắng) nghi là ma túy được niêm phong trong phong bì ký hiệu “QT”.

- Thu trên mặt sân bóng: 01 vỏ chai nhựa có chữ Wakeup 247, có nắp màu đen, trên nắp chai có hai đoạn ống hút màu trắng được niêm phong trong phong bì “QT1”.

- Thu giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Lead, màu sơn đen đỏ, biển kiểm soát 99H1-279.29; thu trên người Nguyễn Văn T 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone, có Imei: 355899060576515 và Nguyễn Văn H 01 điện thoại nhãn hiệu Redmi, có Imei: 864086042159667.

Sau khi lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, Công an xã Trung Sơn đã chuyển toàn bộ tài liệu, đồ vật và đối tượng T, H đến Công an huyện Việt Yên điều tra theo thẩm quyền.

Ngày 01/01/2021, Công an huyện Việt Yên tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn H tại thôn Q, xã T huyện V. Kết quả khám xét không thu giữ được đồ vật, tài liệu gì. Tiến hành kiểm tra điện thoại di động thu giữ của T, H. Kết quả điện thoại không lắp sim, không có dữ liệu gì.

Ngày 01/01/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an huyện Việt Yên đã trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Bắc Giang giám định số vật chứng thu giữ khi bắt người phạm tội quả tang được niêm phong trong phong bì ký hiệu “QT”.

Cùng ngày 01/01/2021, tại Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Bắc Giang, Cơ quan điều tra tiến hành mở niêm phong số vật chứng nghi là ma túy thu giữ khi bắt quả tang được niêm phong trong phong bì ký hiệu “QT” để cho bị cáo Nguyễn Văn T và Nguyễn Văn H xác định có phải là số ma túy của T, H mua về sử dụng không. Kết quả Nguyễn Văn T và Nguyễn Văn H đều khẳng định, xác nhận ba túi ni lon đựng trong phong bì niêm phong ký hiệu “QT” là ba túi ma túy của bị cáo T, H mua ngày 31/12/2020, với mục đích để sử dụng sau đó bị Công an thu giữ.

Ngày 04/01/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an huyện Việt Yên tiến hành khám nghiệm hiện trường tại sân bóng thôn Q, xã T, huyện V. Kết quả Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn H đã chỉ đúng vị trí để ma tuý, ngồi làm dụng cụ để sử dụng ma tuý; quá trình khám nghiệm thu giữ tại mặt sân bóng cạnh thành mương đã thu giữ ma túy khi bắt quả tang 03 vỏ hộ sữa có chữ “ZinZin”, được niêm phong trong phong bì “HT”.

Tại bản kết luận giám định số 28/KL-KTHS ngày 06/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Bắc Giang kết luận:

Trong 01 (một) phong bì có ký hiệu “QT” đã được niêm phong gửi giám định:

- Tinh thể màu trắng đựng trong 02(hai) túi ni lon màu trắng một đầu của mỗi túi có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu xanh là ma túy, có tổng khối lƣợng 0,148 gam, loại Methamphetamine.

- Tinh thể màu trắng và 01 (một) viên nén màu hồng đỏ đựng trong 01 (một) túi ni lon màu trắng một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu xanh là ma túy, có tổng khối lƣợng 0,170 gam, loại Methamphetamine.

Ngày 26/5/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an huyện Việt Yên trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Bắc Giang giám định thu giữ dấu vết đường vân trên chai nhựa, vỏ hộp sữa thu giữ khi bắt quả tang các bị cáo và khám nghiệm hiện trường.

Tại bản kết luận giám định số 895A/KL-KTHS ngày 29/5/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Bắc Giang kết luận: Trên chai nhựa có chữ Wake up 247, nắp chai màu đen gắn hai đoạn ống hút nhựa màu trắng phát hiện 01 (một) dấu vết đường vân dạng vân đầu ngón tay bằng phương pháp xông keo, đường vân màu trắng mờ nhòe, không thể hiện rõ đặc điểm riêng, không đủ yếu tố giám định.

Quá trình điều tra các bị cáo Nguyễn Văn T và Nguyễn Văn H khai nhận như sau: Khoảng 19 giờ ngày 31/12/2020, trong lúc Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn H và Đàm Văn N sinh năm 1992 ở cùng thôn và một người nam thanh niên là bạn của N (N khai chỉ biết tên Hiệp còn họ tên, địa chỉ cụ thể không biết) ngồi ăn cỗ, uống rượu cùng nhau tại đám cưới của Đàm Văn C sinh năm 1993 ở thôn Q, xã T, huyện V , tỉnh Bắc Giang. Trong lúc ăn cỗ, T rủ N uống rượu xong đi sử dụng ma túy cùng nhưng N bảo không sử dụng ma túy. Lúc này, T rủ H góp tiền mua ma túy về sử dụng. H bảo không có tiền thì T bảo để T ứng tiền ra trước để đi mua ma tuý, hết bao nhiêu về thanh toán sau thì H đồng ý. Sau đó, T, H tiếp tục uống rượu cùng mọi người thì C sang mời rượu T. Lúc này, T tiếp tục rủ C sử dụng ma túy nhưng C không nói gì nên T không rủ C sử dụng ma tuý nữa. Sau khi uống rượu xong thì N cùng bạn tên H bỏ đi. Khoảng 20 giờ cùng ngày, T và H cùng nhau đi bộ từ nhà C sang nhà N để mượn xe mô tô đi mua ma túy. Khi sang đến nhà N thấy cổng đóng nên cả hai đi bộ quay ra để đi ra sân bóng chơi thì gặp người tên là H (bạn của N) một mình đi xe mô tô nhãn hiệu Honda Lead, màu sơn đen đỏ, biển kiểm soát 99H1- 279.29 của N đến nên T, H bảo H chở cả hai ra sân bóng. Khi ra tới sân bóng, T thấy N đang ngồi dưới sân bóng nên bảo N cho mượn xe mô tô đi có chút việc thì N đồng ý và bảo ai tỉnh rượu thì đèo. Sau đó, H điều khiển xe mô tô của N chở T ngồi sau đi mua ma túy. Trên đường đi, T dùng điện thoại di động của mình gọi điện cho bạn mới quen ngoài xã hội chỉ biết tên là H còn họ tên, địa chỉ không biết và không nhớ số điện thoại hỏi địa điểm mua ma túy rồi bảo H đi đến địa diểm H bảo bán ma túy. T bảo H điều khiển xe chở đến đầu ngõ dẫn vào một số nhà dân không quen biết ở thôn Tân Sơn, xã Trung Sơn, huyện Việt Yên theo sự chỉ dẫn của T thì đỗ xe đứng chờ còn T đi bộ một mình vào trong ngõ và đến cổng nhà để mua ma túy. T đứng ở cổng gọi “Anh ơi để cho em 2-1” tức bán cho 200.000 đồng tiền ma túy tổng hợp dạng đá và 100.000 đồng tiền ma túy tổng hợp dạng ngựa, đồng thời T lấy 300.000 đồng cầm ở tay đưa qua lỗ cửa thì có người cầm tiền rồi đưa lại cho T 03 túi ma túy đựng bằng ba túi nilon màu trắng có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu xanh (trong đó:

01 túi đựng chất tinh thể màu trắng và 01 viên nén màu hồng đỏ, 02 túi đựng tinh thể màu trắng). T cầm 03 túi ma túy vừa mua được cất giấu ở lòng bàn tay trái đi bộ ra gặp H rồi H điều khiển xe chở T quay về sân bóng thôn Q, xã T để sử dụng ma túy. Trên đường về sân bóng, T mua 01 chai nước Wakeup 247 để uống và làm dụng cụ sử dụng ma túy, đồng thời lấy điện thoại xóa hết dữ liệu và vứt chiếc sim điện thoại đi. Khi về tới sân bóng, cả hai vẫn thấy N, H đang ngồi ở sân bóng nên ngồi chơi uống nước cùng nhưng không nói cho biết việc đã mua được ma túy rồi H lấy xe mô tô vào đón C ra sân bóng ngồi chơi cùng mọi người. Do chưa có ống hút để làm dụng cụ sử dụng ma túy nên T đưa lại ba túi ma túy mua được cho H cầm rồi bảo H chở đi mua sữa về uống mục đích để lấy ống hút còn H cất giấu ba gói ma túy vào túi áo khoác của mình nhưng sau đó sợ rơi mất nên lại bỏ ra mặt thành mương nước ở sân bóng. T mua sữa về đưa cho mọi người uống còn H dùng thanh sắt nhọn gắn ở bấm móng tay khoét nắp chai nhựa và lấy ống hút sữa gắn vào chai để làm dụng cụ sử dụng chất ma túy. T thấy không có thuốc lá để hút nên tiếp tục bảo H đèo đi mua thuốc lá. H chuẩn bị điều khiển xe mô tô chở T đi thì phát hiện Công an xã T đi đến nên H, N, C, H bỏ chạy. Sau đó, Công xã Trung Sơn bắt giữ được T và H cùng toàn bộ số ma túy vừa mua được cùng vật chứng khác có liên quan rồi lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và bàn giao cho Công an huyện Việt Yên để điều tra theo thẩm quyền.

Bản Cáo trạng số 101/CT-VKS ngày 23/6/2021 của VKSND huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn T và Nguyễn Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 – Bộ luật Hình sự 2015.

Tại phiên tòa các bị cáo khai báo thành khẩn toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng đã truy tố, các bị cáo thấy được tội lỗi của mình và đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát sau khi phân tích tính chất của vụ án và giữ nguyên quan điểm truy tố của bản cáo trạng, đồng thời phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đề nghị HĐXX tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn T và Nguyễn Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38 – BLHS:

Xử phạt Nguyễn Văn T từ 16 tháng đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam 01/01/2021. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Nguyễn Văn T.

Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38 – BLHS:

Xử phạt Nguyễn Văn H từ 14 tháng đến 16 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam 01/01/2021.

Phạt tiền bị cáo Nguyễn Văn H từ 5.000.000đồng đến 6.000.000đồng sung quỹ nhà nước.

Vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1, 2 Điều 47 BLHS, điểm a, c khoản 2, khoản 3 Điều 106 - Bộ luật tố tụng hình sự 2015:

Tịch thu tiêu hủy 0,269 gam ma túy Methamphetamine còn lại sau giám định.

Tịch thu tiêu hủy 01 vỏ chai nhựa gắn hai ống hút và 03 vỏ hộp sữa.

Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động Iphone của Nguyễn Văn T.

Trả lại bị cáo Nguyễn Văn H 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Redmi, nhưng tạm giữ lại để đảm bảo thi hành án.

Trả lại chị Nguyễn Thị T 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Lead màu sơn đỏ - đen, biển kiểm soát 99H1-279.29.

Án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS và điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 23 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo T, buộc bị cáo H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra; Điều tra viên; Viện kiểm sát; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện phù hợp với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là thành khẩn, phù hợp với lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác mà Cơ quan điều tra đã thu thập được thể hiện trong hồ sơ vụ án như biên bản phạm tội quả tang, biên bản khám xét, kết luận giám định. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 21 giờ ngày 31/12/2020, tại sân bóng thuộc thôn Q, xã T, huyện V, tỉnh Bắc Giang. Công an xã Trung Sơn, huyện Việt Yên phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Văn T và Nguyễn Văn H đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,318 gam chất ma túy Methamphetamine, với mục đích để sử dụng. Bản cáo trạng số 101/CT-VKS ngày 23/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang truy tố các bị cáo Nguyễn Văn T và Nguyễn Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 – Bộ luật hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất vụ án: Đây là vụ án có nhiều bị cáo tham gia thực hiện tội phạm với lỗi cố ý, có tính chất đồng phạm nhưng ở mức độ giản đơn. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của nhà nước đối với các chất về ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội. Bên cạnh đó nó còn là nguyên nhân và điều kiện phát sinh các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác. Vì vậy, việc xử lý bằng pháp luật hình sự là cần thiết, phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Xét vai trò của các bị cáo:

Giữ vai trò chính trong vụ án là bị cáo Nguyễn Văn T bị cáo là người khởi xướng rủ rê bị cáo H và bị cáo là người trực tiếp gọi điện thoại và bỏ tiền ra mua ma túy. Vì vậy bị cáo phải chịu hình phạt cao hơn bị cáo Nguyễn Văn H.

Giữ vai trò tiếp theo là bị bị cáo Nguyễn Văn H khi được Thoại rủ sử dụng ma túy bị cáo không can ngăn mà tỏ ra đồng tình về việc sử dụng ma túy và cùng T đi mua ma túy, vì vậy bị cáo H cũng phải chịu mức án tương xứng với hành vi của bị cáo đã gây ra.

[5]Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Trong vụ án này các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 – BLHS. Bị cáo T có thời gian phục vụ trong quân đội và được tặng danh hiệu chiến sỹ tiên tiến năm 2018 đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS. Do đó HĐXX cần cân nhắc để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo theo quy định của pháp luật.

Hiện nay các bị cáo đang bị tạm giam cần tiếp tục tạm giam các bị cáo để đảm bảo thi hành án theo quy định tại Điều 329 – BLTTHS.

[7] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy các bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với các bị cáo là phù hợp pháp luật.

[8] Trong vụ án này Đàm Văn N cho T mượn xe mô tô nhưng khi cho mượn xe N không biết Thoại dùng xe đi mua ma túy, đồng thời N, C và H bạn của N không biết T, H đi mua ma túy về sử dụng, không tham gia, không giúp các bị cáo mua ma túy và không tham gia sử dụng ma túy nên Cơ quan điều tra không xem xét xử lý C, N, H là phù hợp pháp luật.

Đối với đối tượng chỉ địa điểm bán ma túy cho T để T và H đến mua ma túy và đối tượng bán ma túy, quá trình điều tra bị cáo T, H đều khai không biết họ tên, địa chỉ cụ thể và không chỉ được địa điểm đã mua ma túy. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh Công an xã Trung Sơn xác định tại thôn Tân Sơn, xã Trung Sơn, huyện Việt Yên nhưng không phát hiện người nào, địa điểm nào bán ma tuý như T khai nên Cơ quan điều tra đã tách các tài liệu liên quan này ra khỏi hồ sơ vụ án tiếp tục xác minh, xử lý sau.

[9] Về vật chứng của vụ án: Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Lead, màu sơn đen đỏ, biển kiểm soát 99H1-279.29, quá trình điều tra xác định là tài sản của chị Nguyễn Thị T sinh năm 1997, trú tại: thôn V, xã C, huyện G, tỉnh Bắc Ninh (chị T là em vợ của N) cho N mượn để đi lại, không biết các bị cáo dùng xe để đi mua ma túy. Cần trả lại cho chị Nguyễn Thị T là phù hợp.

Đối với 0,269gam ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định là vật cấm lưu hành và sử dụng cần được tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 vỏ chai nhựa gắn hai ống hút và 03 vỏ hộp sữa là đồ vật các bị cáo dùng làm dụng cụ sử dụng ma túy cần được tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động thu giữ của bị cáo T là đồ vật bị cáo dùng gọi điện tìm địa điểm mua ma túy cần được tịch thu sung quỹ nhà nước.

Đối với 01 điện thoại di động thu giữ của bị cáo H không sử dụng vào việc phạm tội, cần trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ lại để đảm bảo thi hành án.

[10] Về án phí: Bị H cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Bị cáo T gia đình thuộc hộ cận nghèo, vì vậy miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo là phù hợp pháp luật.

[11] Đề nghị của Viện kiểm sát ở tại phiên tòa về hình phạt tù là phù hợp cần được chấp nhận. Về hình phạt bổ sung đối với bị cáo H là người không có công việc và thu nhập ổn định nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo H.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

(1) Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38 – Bộ luật hình sự.

Xử phạt Nguyễn Văn T 01 năm 06 tháng ( Một năm sáu tháng) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 01/01/2021.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38 – Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Văn H 01 năm 03 tháng (Một năm ba tháng) tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 01/01/2021.

(2) Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 47- BLHS; Điều 106- BLTTHS. Tịch thu tiêu hủy 0,269 gamma túy Methamphetamine còn lại sau giám định. Tịch thu tiêu hủy 01 vỏ chai nhựa gắn hai ống hút và 03 vỏ hộp sữa.

Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động Iphone.

Trả lại bị cáo Nguyễn Văn H 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Redmi, nhưng tạm giữ lại để đảm bảo thi hành án.

Trả lại chị Nguyễn Thị T 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Lead màu sơn đỏ - đen, biển kiểm soát 99H1-279.29.

(Vật chứng có đặc điểm như biên bản bàn giao vật chứng giữa Cơ quan điều tra và Chi cục thi hành án dân sự huyện Việt Yên).

(3) Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 – BLTTHS, điểm a khoản 1 Điều 23, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí. Buộc Nguyễn Văn H phải nộp 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm. Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Nguyễn Văn T.

(4) Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333, 334- BLTTHS.

Báo cho các bị cáo, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

283
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 107/2021/HS-ST

Số hiệu:107/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Việt Yên - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về