Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 107/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LIÊN CHIỂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 107/2020/HS-ST NGÀY 30/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 12 năm 2020, tại Toà án nhân dân quận L, thành phố Đ xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 110/2020/TLST-HS ngày 24 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 111/2020/QĐXXST- HS ngày 11 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Hoàng Thế P (Tên gọi khác: Gió) - Sinh ngày 01 tháng 11 năm 1990 tại Đ; nơi ĐKNKTT: Tổ 23, phường T, quận T, TP. Đ; nơi cư trú: Tổ 13, P. H, Q. L, TP. Đ; nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ học vấn: 09/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Hoa; tôn giáo: Không; con ông: Hoàng Thế L (sinh năm 1956) và bà Nguyễn Tôn Nữ Minh K (sinh năm 1956).

Tiền án, tiền sự: Chưa.

Nhân thân: Ngày 24/8/2020, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận L TP. Đ ra Quyết định số 102/QĐ-XPVPHC xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy bằng hình thức phạt tiền 750.000 đồng. Nộp tiền xong ngày 23/10/2020.

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 09/8/2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an quận L, TP. Đ. (Có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị Thúy V – sinh năm 2001; nơi cư trú: Tổ 84, phường H, quận L, TP. Đ. (Vắng mặt, không có lý do)

- Người làm chứng: Ông Vũ Minh S– sinh năm 1983; nơi cư trú: Tổ 45, phường H, quận L, TP. Đ. (Vắng mặt, không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 18h30’ ngày 09/08/2020, do có nhu cầu sử dụng trái phép chất ma túy nên Hoàng Thế P đã điện thoại cho một nam thanh niên tên D (không rõ nhân thân, lai lịch) để hỏi mua một gói ma túy đá với giá 500.000 đồng và hẹn giao dịch tại khu vực Cầu N trên đường N thuộc phường H, quận L, thành phố Đ. P điều khiển xe máy mang BKS: 43F1 - xxxxx đến chỗ hẹn để lấy ma túy, sau đó cất giấu gói ma túy vừa mua vào trong túi quần và đi đến đoạn đường L Quân thuộc phường H, quận L thì bị tổ công tác C2- 911 Công an thành phố Đ đang tuần tra trên đường tiến hành kiểm tra hành chính, phát hiện, thu giữ trong túi quần bên trái phía trước của P 01 gói nilong màu trắng bên trong có chứa tinh thể màu trắng nghi là chất ma túy loại Methamphetamine (ký hiệu A) nên lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang và thu giữ các tang vật khác có liên quan.

* Theo Kết luận giám định số 239/GĐ-MT ngày 13/8/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đ kết luận: Tinh thể màu trắng trong bì niêm phong ký hiệu A gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng mẫu A: 0,223 gam.

* Vật chứng thu giữ:

- 01 gói nilong màu trắng bên trong có chứa tinh thể màu trắng nghi là chất ma túy loại Methamphetamine (ký hiệu A); 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen kèm thẻ sim số 0766.619.xxx: Chuyển Chi cục Thi hành án dân sự quận L tạm thời quản lý.

- 01 xe mô tô hiệu Vision màu đỏ BKS 43F1 - xxxxx: đã trả lại cho chủ sở hữu Nguyễn Thị Thúy Vy.

Tại Cáo trạng số 113/CT-VKS ngày 24 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận L, thành phố Đ đã truy tố Hoàng Thế P về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận L vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt Hoàng Thế P từ 15 tháng đến 18 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên:

- Tịch thu, tiêu hủy: Toàn bộ chất ma túy còn lại sau giám định; một thẻ sim số 0766.619.xxx.

đen.

- Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà, bị cáo Hoàng Thế P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với nội dung bản cáo trạng và tang vật thu giữ được. Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở để xác định:

Khoảng 21h35’ ngày 09/8/2020, tại khu vực đường L thuộc P. H, Q. L, TP. Đ, Hoàng Thế P đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,223 gam ma túy loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng thì bị lực lượng 911 Công an thành phố Đ tiến hành kiểm tra hành chính phát hiện, thu giữ và bắt quả tang.

Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận L đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo P là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Bị cáo nhận thức rõ ma tuý gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe và sự phát triển nòi giống của dân tộc, ma tuý là tệ nạn xã hội và là nguyên nhân gây ra nhiều loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác, bị cáo đã bất chấp các quy định của pháp luật, vẫn cố ý mua ma túy về để sử dụng. Ngày 24/8/2020, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận L TP. Đ ra Quyết định số 102/QĐ-XPVPHC xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy bằng hình thức phạt tiền 750.000 đồng. Do đó hành vi của bị cáo cần phải xử lý nghiêm .

[4] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải lần đầu phạm tội, bị cáo đã từng tham gia nghĩa vụ quân sự. Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[5] Xét mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận L đề nghị là phù hợp với nhân thân, tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra. Do vậy, Hội đồng xét xử thấy cần phải cách ly ra ngoài xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[6] Đối với nam thanh niên tên D (không rõ lai lịch), là người bán ma túy cho P trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra chưa xác định được lai lịch của đối tượng này nên sẽ tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý sau.

[7] Đối với chiếc xe mô tô hiệu Vision màu đỏ BKS 43F1 - xxxxx là của chị Nguyễn Thị Thúy V đứng tên chủ sở hữu. Ngày 09.8.2020, chị Vy cho Hoàng Thế P mượn chiếc xe để đi công việc, không biết mục đích P đi đâu, làm gì. Ngày 27/11/2020, Cơ quan CSĐT Công an quận L đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 38A/CSĐT trả lại cho chủ sở hữu là chị Nguyễn Thị Thúy Vy. HĐXX thấy phù hợp nên không đề cập giải quyết.

[8] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Đối với toàn bộ chất ma túy còn lại sau giám định; một thẻ sim số 0766.619.xxx HĐXX thấy cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen có liên quan đến Vệc trao đổi mua ma túy cần tịch thu sung công quỹ nhà nước.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Hoàng Thế P phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Hoàng Thế P 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày 09 tháng 8 năm 2020.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tuyên:

- Tịch thu, tiêu hủy: Toàn bộ chất ma túy còn lại sau giám định; một thẻ sim số 0766.619.xxx.

- Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen (có liên quan đến việc trao đổi mua ma túy).

(Hiện đang được tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận L theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 24 tháng 12 năm 2020) 3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án.

Buộc bị cáo P phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

44
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 107/2020/HS-ST

Số hiệu:107/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Liên Chiểu - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:30/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về