Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 106/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN PHONG, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 106/2023/HS-ST NGÀY 10/08/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai hình thức trực tuyến vụ án hình sự thụ lý số 95/2023/HSST, ngày 07 tháng 7 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 93/2023/QĐXXST-HS ngày 26/7/2023 đối với bị cáo:

Lê Văn Đ, sinh năm 1987;

Nơi cư trú: Xóm Bắc Vọng, xã Bế Văn Đàn, huyện Q, tỉnh C; Giới tính: Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: Lớp 11/12; Con ông Lê Văn T (đã chết) và bà Nguyễn Thị L (đã chết); gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con út; vợ, con: chưa có; Tiền sự: Không.

- Tiền án: Tại bản án số 71/2021/HS-ST ngày 17/5/2021 của Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh B áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 xử phạt Đ 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Ngày 03/01/2023, Đ chấp hành xong hình phạt tù.

- Nhân thân:

+ Năm 2016, Đ bị Công an huyện Phục Hòa Quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi “Trộm cắp tài sản” mức phạt 1.000.000 đồng, bị can đã chấp hành xong.

+ Tại bản án số 20/2016/HS-ST ngày 27/9/2016 của Tòa án nhân dân huyện Phục Hòa, tỉnh C áp dụng khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999 xử phạt Đ 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 10/7/2017, Đ chấp hành xong toàn bộ bản án.

- BÞ cáo bÞ t¹m gi÷, tạm giam từ ngµy 19/4/2023 ®Õn nay. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh B. Có mặt.

Người tham gia tố tụng khác:

1. Ông Nguyễn Đức Đ1 - Cán bộ tin học.

2. Ông Trần Văn Đ - Cán bộ Công an huyện Y.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 14 giờ 45 phút ngày 19/4/2023, tại khu vực gầm cầu đường Quốc lộ 18 đi qua đường tỉnh lộ 286 thuộc địa phận thôn Đông Yên, xã Đông Phong, huyện Y, tỉnh B, Công an xã Đông Phong, huyện Y, tỉnh B bắt quả tang Lê Văn Đ đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Vật chứng thu giữ: Tại lòng bàn tay phải của Lê Văn Đ: 01 túi nilon màu trắng, viền màu đỏ, kích thước (1,5 x 1,5)cm, bên trong chứa chất bột màu trắng. Đ khai là ma túy Heroine vừa mua được (được niêm phong trong phong bì thư).

Tại bản kết luận giám Đ số 914/KL-KTHS ngày 21 tháng 4 năm 2023 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh B kết luận: “Chất bột màu trắng bên trong 01 (một) túi nilon màu trắng viền màu đỏ (kích thước 1,5x1,5 cm) có khối lượng là 0,1505 gam; Là ma túy; Loại ma túy: Heroin (Heroine) có tên khoa học là Dyacetylmorphine là chất ma túy được quy Đ tại Nghị Định 57/2022/NĐ-CP, ngày 25/8/2022 của Chính Phủ ban hành các danh mục chất ma túy và tiền chất.”.

Cáo trạng số 95/CT-VKSYP ngày 06/7/2023 của VKSND huyện Y, tỉnh B truy tố Lê Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo thừa nhận Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố hành vi phạm tội của bị cáo là đúng và khai nhận: Đ là đối tượng có sử dụng trái phép chất ma túy từ năm 2019. Do cần ma túy để sử dụng cho bản thân. Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 19/4/2023, Đ đi bộ từ phòng trọ ở thôn Mẫn Xá, xã Văn Môn, huyện Y, đến khu vực gầm cầu đường Quốc lộ 18 đi qua đường tỉnh lộ 286 thuộc địa phận thuộc thôn Đông Yên, xã Đông Phong, huyện Y, tỉnh B gặp người đàn ông không quen biết hỏi mua ma túy Heroin để sử dụng. Đ hỏi người đàn ông: “Anh có ma túy Heroin không để cho em 200.000 đồng”. Người đàn ông trả lời “Có”. Đ đưa cho người đàn ông bán ma túy 200.000 đồng. Người đàn ông cầm tiền đưa lại cho Đ 01 túi nilon màu trắng, viền màu đỏ, kích thước (1,5 x 1,5)cm, bên trong chứa chất bột màu trắng. Đ cầm túi ma túy ở lòng bàn tay phải để đi về phòng trọ. Đúng lúc này, lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện bắt quả tang.

Đại diện VKSND huyện Y thực hành quyền công tố tại phiên tòa, phân tích đánh giá chứng cứ, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra cho xã hội cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã kết luận về vụ án và giữ nguyên quan điểm như đã truy tố và đề nghị HĐXX.

Tuyên bố Lê Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS tuyên phạt bị cáo từ 20 đến 24 tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 19/4/2023.

Đề nghị miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu huỷ số ma tuý còn lại sau giám Đ và 01 que thử nước tiểu của bị cáo.

Lưu hồ sơ 01 đĩa CD hỏi cung Lê Văn Đ của CQCSĐT Công an huyện Y.

Bị cáo không tranh luận, đối đáp với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát, chỉ đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo tại phiên toà.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận Đ:

[1] Về hành vi, quyết Đ tố tụng của Điều tra viên Công an huyện Y, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn theo quy Đ của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo không có khiếu nại gì. Do vậy các hành vi, quyết Đ tố tụng của những người tiến hành tố tụng trên đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 14 giờ 45 phút ngày 19/4/2023, tại khu vực gầm cầu đường Quốc lộ 18 đi qua đường tỉnh lộ 286 thuộc địa phận thôn Đông Yên, xã Đông Phong, huyện Y, tỉnh B, Lê Văn Đ đang có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói Heroine có khối lượng 0,1505 gam, mục đích để sử dụng. Do vậy, đại diện VKSND huyện Y thực hành quyền công tố tại phiên toà đề nghị HĐXX tuyên bố các bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c, khoản 1, Điều 249 BLHS là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội, tiếp tay cho những người nghiện ma túy, là một trong những nguyên nhân gây ra tội phạm, các tệ nạn xã hội khác. Chính vì vậy, phải xử lý nghiêm bị cáo nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có 01 tiền án chưa được xóa án tích nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” quy Đ tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy Đ tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

Căn cứ tính chất vụ án cần buộc bị cáo cách ly xã hội một thời gian nhất Đ tương xứng với hành vi của bị cáo đã thực hiện nhằm cải tạo và giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật.

Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có việc làm và thu nhập ổn Đ nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho các bị cáo là phù hợp.

[3] Liên quan trong vụ án còn có đối tượng bán ma túy cho Đ. Đ không biết tên, tuổi, địa chỉ của người này nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, xử lý.

[4] Về vật chứng: Đối với 01 Phong bì thư niêm phong dán kín trên phong bì có ghi người nhận: Cơ quan CSĐT Công an huyện Y (Mẫu vật hoàn lại sau giám Đ trong vụ Lê Văn Đ, sinh năm 1987 ở Bắc Vọng, Bế Văn Đàn, Q, C có hàng vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và 01 Phong bì thư niêm phong dán kín bên trong chứ que thử nước tiểu của Lê Văn Đ cần tịch thu tiêu huỷ.

Lưu hồ sơ 01 đĩa CD hỏi cung Lê Văn Đ của CQCSĐT Công an huyện Y.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui Đ pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNHg

1. Tuyên bố: Lê Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự 2015; Xử phạt:

Lê Văn Đ 22 (Hai mươi hai) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 19/4/2023.

Áp dụng Điều 329 BLTTHS: Tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án (10/8/2023) theo Quyết Đ tạm giam của Hội đồng xét xử.

2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS;

Tịch thu tiêu hủy 01 Phong bì thư niêm phong dán kín trên phong bì có ghi người nhận: Cơ quan CSĐT Công an huyện Y (Mẫu vật hoàn lại sau giám Đ trong vụ Lê Văn Đ, sinh năm 1987 ở Bắc Vọng, Bế Văn Đàn, Q, C có hàng vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và 01 Phong bì thư niêm phong dán kín bên trong chứ que thử nước tiểu của Lê Văn Đ.

Lưu hồ sơ 01 đĩa CD hỏi cung Lê Văn Đ của CQCSĐT Công an huyện Y.

(Vật chứng có đặc điểm theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/7/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Y).

3. Về án phí: Áp dụng Nghi quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội qui Đ về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Bị cáo phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 332, Điều 333 BLTTHS.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

10
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 106/2023/HS-ST

Số hiệu:106/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Phong - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:10/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về