Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 106/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA

 BẢN ÁN 106/2021/HS-ST NGÀY 21/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21/7/2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuận Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 113/2021/TLST-HS ngày 05/7/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 144/2021/QĐXXST-HS ngày 09/7/2021đối với các bị cáo:

1. Lò Văn S; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1992 tại xã Thôm M , huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; Nơi cư tru: Bản T, xã Thôm M , huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La ; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Thái; Giơi tinh : Nam; Tôn giáo: Không; Quôc tich : Viêt Nam ; Con ông : Lò Văn H, sinh năm 1962 và bà Lò Thị D, sinh năm: 1966; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền sự: Không; Tiền án : Không; Nhân thân : Ngày 19/7/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La xử phạt 9 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng về tội Đánh bạc ( đã được xóa án tích ). Ngày 25/3/2015 bị Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn là 12 tháng ( đã hết thời hạn bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính); Bị cáo bị bắt tạm giư, tạm giam từ ngày 14/4/2021 cho đến nay, có mặt.

2. Lò Văn K; Tên gọi khác: Không; sinh năm: 1993 tại xã Thôm M , huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La ; Nơi cư tru : Bản N, xã Thôm M, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La ; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ học vấn: 7/12; Dân tộc: Thái; Giơi tính: Nam; Tôn giáo : Không; Quôc tich : Viêt Nam ; Con ông : Lò Văn K, sinh năm 1965 và bà Lò Thị D, sinh năm: 1965; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền sự: Không; Tiền án : Không; Nhân thân : Ngày 24/3/2015 bị Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La xử phạt 24 tháng tù về tội mua bán trái phép chất ma túy ( đã được xóa án tích ); Bị cáo bị bắt tạm giữ , tạm giam từ ngày 14/4/2021cho đến nay, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 09 giờ 30 phút ngày 14/4/2021, Tổ công tác Đội hình sự Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La tiến hành kiểm tra nhà ở của Lò Văn S tại Bản T, xã Thôm M, huyện Thuận Châu phát hiện bắt quả tang Lò Văn S và Lò Văn K có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ gồm: Một gói nilon màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng, nghi là Heroine ( Son, Khôn khai là Heroine). Một bật lửa ga vỏ nhựa màu cam không rõ nhãn hiệu, đã qua sử dụng. Một mảnh giấy bạc bị đốt cháy dở không rõ hình dạng.

Hồi 14 giờ ngày 17/4/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu đã tiến hành bóc mở niêm phong cân tịnh số bột màu trắng thu giữ của Lò Văn S, Lò Văn K. Cân tịnh bột màu trắng được khối lượng 0,79 gam, trích rút toàn bộ 0,33 gam ký hiệu S1 gửi giám định chất và loại ma túy.

Tại Kết luận giám định số: 800/KLMT ngày 16/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận: “ Mẫu gửi giám định ký hiệu S1 là ma túy; loại Heroine, tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,79gam. Hoàn lại mẫu vật gửi giám định ký hiệu 0,30 gam.

Quá trình điều tra bị cáo Lò Văn S, Lò Văn K khai nhân: Khoảng 20 giờ 00 phút, ngày 13/4/2021 Lò Văn S đến Bản T chơi thì gặp Lò Văn K ở đó. Sau khi gặp S rủ K góp tiền mua ma túy sử dụng. Khôn đồng ý góp 400.000 đồng, Son góp 600.000 đồng. Sau đó S cầm tiền để đi mua ma túy còn K đứng đợi. S đi đến bản L, xã T, huyện Thuận Châu và gặp hỏi mua của một người đàn ông dân tộc Thái một gói ma túy được gói bằng nilon màu trắng bên trong có một ít Heroine và 10 viên hồng phiến với giá 1.000.000 đồng. Sau khi mua được ma túy thì S cầm gói ma túy và đi ra chỗ K đợi rồi đi về. Khi về đến nhà cả hai người đã cùng nhau sử dụng một ít số Heroine và 10 viên hồng phiến, số Heroine còn lại S để ở trên đầu đệm ngủ của mình. Đến khoảng 09 giờ ngày 14/4/2021 S và K đang chuẩn bị sử dụng tiếp thì bị Đội hình sự công an huyện Thuận Châu phát hiện và bắt quả tang như đã nêu trên.

Tại bản cáo trạng số: 923/CT-VKS ngày 05/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu đã truy tố Lò Văn S, Lò Văn K về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay, Lò Văn S, Lò Văn K đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu giữ quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Lò Văn S, Lò Văn K phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Lò Văn S từ 24 đến 30 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 14/4/2021).

Xử phạt bị cáo Lò Văn K từ 20 đến 26 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 14/4/2021).

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với các bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 gói nilon màu trắng + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu.

01 phong bì niêm phong mẫu gửi giám định đã bóc mở + chất bột màu trắng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu S1 không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng 0,30 gam. 01 bật lửa ga vỏ nhựa màu cam không rõ nhãn hiệu, đã qua sử dụng. 01 mảnh giấy bạc bị đốt cháy dở không rõ hình dạng.

Án phí : Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Các bị cáo Lò Văn S, Lò Văn K phải chịu án phí hình sự sơ thẩm mỗi bị cáo là 200.000 đồng.

Tại phiên tòa, các bị cáo Lò Văn S, Lò Văn K thừa nhận hành vi phạm tội và không có ý kiến tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Ngày 14/4/2021 Lò Văn S, Lò Văn K đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,79 gam chất ma túy, loại Heroine nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân các bị cáo thì bị phát hiện, bắt quả tang tại nhà bị cáo Lò Văn S tại Bản T, xã T , huyện Thuận Châu.

Tại phiên tòa các bị cáo giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, không bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án, các bị cáo hoàn toàn nhất trí với hành vi phạm tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Lời khai của các bị cáo phù hợp với:

Lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với kết quả điều tra, Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 09 giờ 30 phút ngày 14/4/2021; Biên bản niêm phong vật chứng; Biên bản mở niêm phong kiểm tra vật chứng và niêm phong lại; Biên bản bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng lấy mẫu gửi giám định và niêm phong ; Kết luận giám định số 800/KLMT ngày 16/4/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La.

[2] Từ các căn cứ trên có đủ cơ sở kết luận hành vi cất giữ trái phép 0,79 gam chất ma túy, loại Heroine với mục đích để sử dụng của Lò Văn S, Lò Văn K đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo thuôc trương hơp nghiêm trong và nguy hiểm cho xã hội , xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự an ninh xã hội tại địa phương. Do đó cần co mưc hình phạt nghiêm khắc nhằm răn đe giáo dục đối với các bị cáo, trên cơ sở xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân, vai trò của các bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Lò Văn S, Lò Văn K không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo Lò Văn S, Lò Văn K thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo.

Về nhân thân: Bị cáo Lò Văn S có 01 tiền án , 01 tiền sự ( đã được xóa án tích và đã hết thời hạn bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính). Bị cáo Lò Văn K có 01 tiền án ( đã được xóa án tích) thuộc trường hợp những người có nhân thân xấu.

Về vai trò đồng phạm : Các bị cáo Lò Văn S, Lò Văn K cùng thực hiện hành vi phạm tội , cùng nhau góp tiền, cùng nhau đi mua ma túy trong đo bị cáo Lò Văn S giư vai tro rủ rê, khơi xương, là người trực tiếp thực hiện tội phạm. Bị cáo Lò Văn K giư vai tro đông pham tich cưc . Do đo cân ap dung Điêu 58 Bô luât hinh sư đê ca thê hoa hanh vi pham tôi cua môi bi cao khi quyêt đinh hình phạt.

[4] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Các bị cáo Lò Văn S, Lò Văn K không co tai san riêng, sống phụ thuộc gia đình nên không áp dụng hình phạt bổ sung quy đinh tai khoan 5 Điêu 249 Bô luât hinh sư đối với các bị cáo.

[5] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, thực hiện đúng thủ tục tố tụng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[6] Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ: Bị cá o Lò Văn S khai mua của môt người đàn ông dân tôc Thái (không biết họ tên và địa chỉ cư trú) tại bản L, xã T, huyên Thuân Châu vào ngày 13/4/2021. Do S không biết họ tên, tuổi và địa chỉ cư trú của người đàn ông này nên Cơ quan điều tra không có đủ căn cứ điều tra xư ly.

[7] Vật chứng vụ án: Đối với vật chứng là 01 gói nilon màu trắng + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu. 01 phong bì niêm phong mẫu gửi giám định đã bóc mở + chất bột màu trắng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu S1 không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng 0,30 gam; Một bật lửa ga vỏ nhựa màu cam không rõ nhãn hiệu, đã qua sử dụng; Một mảnh giấy bạc bị đốt cháy dở không rõ hình dạng là vật Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành và vât không co giá trị sử dụng do đó cần tịch thu tiêu hủy vận dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự .

[8] Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Các bị cáo Lò Văn S, Lò Văn K phải chịu án phí hình sự sơ thẩm mỗi bị cáo là 200.000 đồng.

[9] Các bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định tại các Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt:

Tuyên bố các bị cáo Lò Văn S, Lò Văn K phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Lò Văn S 28 ( hai mươi tám ) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 14/4/2021).

Xử phạt bị cáo Lò Văn K 24 ( hai mươi tư ) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 14/4/2021).

Tiếp tục tạm giam các bị cáo trong hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án theo quy đinh tai khoan 1, khoản 3 Điêu 329 Bô luât Tô tung hinh sư.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với các bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án:

Căn cứ vào điểm a, c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106; điêm b khoan 3 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy:

Một gói nilon màu trắng + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu. Các vật chứng trên được cho cùng vào một phong bì niêm phong, dán kín, mặt trước ghi: Vật chứng nhập kho vụ Lò Văn S cùng đồng phạm - Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 14/4/2021. Mặt sau phong bì, dán giấy niêm phong của Công an tỉnh Sơn La số: 024540 đè lên các mép dán của phong bì, trên giấy niêm phong có đầy đủ chữ ký, họ tên của các thành phần tham gia niêm phong, người bị bắt và 02 hình dấu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thuận Châu.

Một phong bì niêm phong mẫu gửi giám định đã bóc mở + chất bột màu trắng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu S1 không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng 0,30 gam, được cho vào một phong bì niêm phong mẫu của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Sơn La. Mặt trước ghi: CÔNG AN TỈNH SƠN LA-PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ, PHONG BÌ NIÊM PHONG. Vật chứng vụ Lò Văn S và Lò Văn K - Tàng trữ trái phép chất ma túy, xảy ra 14/4/2021, tại Bản T, xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La. Niêm phong hồi…. giờ… phút, ngày….tháng… năm 2021 tại Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Sơn La. Gồm có: Một phong bì niêm phong mẫu gửi giám định + chất bột màu trắng chứa chất bột màu trắng thuộc mẫu ký hiệu S1 không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng 0,30 gam. Mặt sau có dán giấy niêm phong của Công an tỉnh Sơn La, có số seri : 046804 đè lên các mép dán phong bì, trên giấy niêm phong 03 dòng chữ ký kèm 03 dòng họ tên và 02 hình dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Sơn La.

Một bật lửa ga vỏ nhựa màu cam không rõ nhãn hiệu, đã qua sử dụng. Một mảnh giấy bạc bị đốt cháy dở không rõ hình dạng.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện Thuận Châu và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuận Châu).

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Các bị cáo Lò Văn S, Lò Văn K phải chịu án phí hình sự sơ thẩm mỗi bị cáo là 200.000 đồng.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 106/2021/HS-ST

Số hiệu:106/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 1 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về