Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 105/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HIỆP HÒA, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 105/2023/HS-ST NGÀY 08/12/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08/12/2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh G mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 104/2023/TLST-HS ngày 20/11/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 101/2023/QĐXXST-HS ngày 24/11/2023, đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Thế Đ; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1985; Nơi cư trú:thôn N, xã T, huyện Việt Yên, tỉnh G, Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;

Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ học vấn: 12/12;

Con ông Lê Thế T, sinh năm 1951 và bà Ngô Thị M, sinh năm 1959. Vợ, con: Chưa có; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất.

Tiền án: Bản án số 133/2022/HS-ST ngày 30/8/2022 của Tòa án nhân dân huyện Việt Yên xử 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” chấp hành xong hình phạt tù ngày 17/3/2023.

Tiền sự: Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 10/QĐ- XPVPHC ngày 17/10/2021 của Công an xã T, huyện Việt Yên xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản.

Nhân thân:

- Bản án số 47/2018/HS-ST ngày 29/6/2018 của Toà án nhân dân huyện Việt Yên xử 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong án phí năm 2018; chấp hành xong hình phạt tù ngày 11/3/2020.

- Bản án số 199/2016/HSST ngày 24/8/2016 của Toà án nhân dân thành phố Bắc Ninh xử 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 13/7/2017.

- Bản án số 23/HSST ngày 24/4/2012 của Toà án nhân dân huyện Việt Yên xử 09 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” nhưng cho hưởng án treo.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/9/2023 đến nay. Hiện đang tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện H, tỉnh G (Có mặt).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Chị Nguyễn Thị K, sinh năm: 1992 (vắng mặt).

Địa chỉ: thôn T, xã S, huyện Tân Yên, tỉnh G.

* Người chứng kiến:

- Anh Nguyễn Văn T1, sinh năm: 1996 (vắng mặt). Địa chỉ: thôn K, LP, H, G.

- Chị Đặng Thị H, sinh năm: 1988 (vắng mặt). Địa chỉ: thôn K, LP, H, Băc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 11 giờ 00 phút ngày 21/9/2023, tại thôn K, xã LP, huyện H, tỉnh G tổ công tác Cơ quan Cảnh sát điều tra Công huyện Hiệp Hoà phối hợp với Công an xã LP, huyện H, tỉnh G bắt quả tang Lê Thế Đ đang thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý, vật chứng thu giữ gồm:

- Tại vị trí mặt đất ngay chân của Đ 01 (một) bao thuốc lá Thăng Long bên trong có 09 (chín) điếu thuốc lá và 01 (một) gói giấy (loại giấy viết học sinh) chứa chất cục bột màu trắng nghi là ma tuý (niêm phong trong phong bì ký hiệu QT);

- Tại túi bên trái quần Đ đang mặc 01 (một) gói giấy mặt ngoài có chữ số, mặt trong màu trắng bên trong chứa chất cục bột màu trắng nghi là ma tuý (niêm phong trong phong bì ký hiệu QT);

- Trong bao tải dứa gài tại ốp sườn xe bên trái xe mô tô biển kiểm soát 98B1- xxxxx của Đ 01 (một) túi nilon màu trắng bên trong có 01 (một) gói giấy (loại giấy viết học sinh) bên trong có 01 gói nilon màu đen chứa chất cục bột màu trắng nghi là ma tuý (niêm phong trong phong bì ký hiệu QT);

- 01 (một) bao tải dứa; 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 98B1-xxxxx; 01 đăng ký xe mô tô số 056071.

Ngày 21/9/2023, Cơ quan điều tra đã làm việc cho Đ xác định việc cất giấu ma tuý tại các vị trí khi bắt quả tang, kết quả Đ xác định đúng các vị trí như trên;

Cùng ngày 21/9/2023, Cơ quan điều tra khám xét khẩn cấp nơi ở của Đ tại thôn N, xã T, huyện Việt Yên, tỉnh G. Kết quả không thu giữ gì liên quan đến tội phạm.

Tại Kết luận giám định số 1778/KL- KTHS ngày 26/9/2023, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh G kết luận:

Trong 01 (một phong bì có ký hiệu "QT" đã được niêm phong gửi giám định:

- Chất cục bột màu trắng đựng trong 01 (một) gói giấy, mặt ngoài có chữ và số, mặt trong màu trắng là ma túy, có khối lượng 0,127 gam, loại Heroin, có tên khoa học là: Diacetylmorphine, được quy định tại Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) và Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất.

- Chất cục bột màu trắng đựng trong 01 (một) gói giấy (loại giấy viết học sinh), được đựng trong 01 (một) bao thuốc lá nhãn hiệu “Thăng Long” là ma túy, có khối lượng 0,226 gam, loại Heroin, có tên khoa học là: Diacetylmorphine, được quy định tại Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) và Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất.

- Chất cục bột màu trắng đựng trong 01 (một) gói ni lon màu đen, được đựng trong 01 (một) gói giấy (loại giấy viết học sinh) (tất cả được đựng trong 01 túi nilon màu trắng) là ma túy, có khối lượng 0,233 gam, loại Heroin, có tên khoa học là: Diacetylmorphine, được quy định tại Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) và Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất” (Bút lục 21-22).

Quá trình điều tra Lê Thế Đ khai nhận như sau: Do thường xuyên sử dụng trái phép chất ma túy nên khoảng hơn 09 giờ ngày 21/9/2023, Đ một mình điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 98B1- xxxxx đến khu vực thôn Q, xã TL, huyện Việt Yên, tỉnh G để mua ma túy sử dụng. Khi đến thôn Q, Đ gặp một người lái xe ôm không quen biết hỏi chỗ mua ma túy. Người lái xe ôm bảo Đ đưa tiền để đi mua hộ, Đ đồng ý và đưa cho người này 1.000.000 đồng nhờ mua hộ ma túy Heroine. Người lái xe ôm cầm tiền đi mua ma tuý hộ Đ, khoảng 10 phút sau người này quay lại đưa cho Đ 03 gói giấy đều chứa ma túy Heroine, Đ giấu 01 gói vào túi quần đang mặc, 01 gói Heroine vào bao thuốc Thăng Long cất trong cốp xe, 01 gói cho vào 01 túi nilon màu trắng và để vào bao tải dứa cài trong ốp sườn bên trái xe mô tô. Sau đó, Đ điều khiển xe mô tô một mình mang theo ma túy đi đến huyện H chơi. Khoảng 11 giờ cùng ngày, khi Đ đi đến thôn K, xã LP huyện Hiệp Hoà, thì dừng lại lấy bao thuốc lá Thăng Long trong cốp xe mô tô ra để bỏ thuốc lá ra hút. Khi Đ đang cầm bao thuốc lá bên trong có giấu ma túy ở tay trái, đúng lúc này lực lượng Công an huyện H phát hiện bắt quả tang, thì bao thuốc lá Thăng Long có giấu ma túy Đ đang cầm trên tay bị rơi xuống đất ngay chân Đ đang đứng thì bị bắt quả tang.

Ngày 21/9/2023, Cơ quan điều tra đã tiến hành kiểm tra xét nghiệm nhanh chất ma túy đối với Đ bằng phương pháp sử dụng Que tets nước tiểu, kết quả xét nghiệm Đ dương tính với ma túy.

Đối với xe mô tô biển kiểm soát 98B1- xxxxx đăng ký xe tên chị Nguyễn Thị K- sinh năm 1992, địa chỉ thôn T, xã S, huyện Tân Yên, tỉnh G, Đ khai mua của người không quen biết trước ngày bị bắt quả tang khoảng 01 tháng. Cơ quan điều tra làm việc với chị K cho biết: Chiếc xe trên ngày 29/8/2023 chị để ở nhà bị kẻ gian lấy trộm, chị đã trình báo đến Công an xã S, huyện Tân Yên. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H đã có công văn thông báo cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Yên và có Quyết định tách chiếc xe mô tô trên để tiếp tục điều tra, xác minh theo quy định.

Tại Cơ quan điều tra Công an huyện H, tỉnh G bị cáo Lê Thế Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại bản cáo trạng số 107/CT-VKS-HH ngày 20 tháng 11 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh G đã truy tố bị cáo Lê Thế Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà bị cáo Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Hội đồng xét xử công bố lời khai của những người được triệu tập nhưng vắng mặt tại phiên tòa và một số tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo thừa nhận lời khai của họ là đúng.

Đại diện Viện sát nhân dân huyện H, tỉnh G giữ quyền công tố tại phiên tòa sau khi phân tích tính chất, hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 38 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt: Bị cáo Lê Thế Đ từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 21/9/2023.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo .

2. Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì ký hiệu ‘”QT” bên trong đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định đã được niêm phong và 01 bao tải dứa.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2017 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Toà án:

Bị cáo Lê Thế Đ phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo nhận tội và không có tranh luận gì với bản luận tội của Viện kiểm sát. Bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra và Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì thấy: Trong quá trình điều tra, truy tố; Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát cũng như Điều tra viên, Kiểm sát viên thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy, Hội đồng xét xử xác định các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án là hợp pháp.

[2]. Về hành vi của Lê Thế Đ: Tại phiên tòa, bị cáo Đ một lần nữa đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được đưa ra xem xét tại phiên toà, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 11 giờ 00 phút, ngày 21/9/2023 tại khu vực thôn K, xã LP, huyện Hiệp Hoà, tỉnh G Lê Thế Đ, sinh năm 1985 đang có hành vi tàng trữ trái phép 0.586 gam ma tuý loại Heroine để sử dụng thì Tổ công tác điều tra Công an huyện H phối hợp với Công an xã LP, huyện H, tỉnh G bắt quả tang. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý của Lê Thế Đ đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh G truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3]. Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng theo quy định của Bộ luật hình sự, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Chỉ vì thỏa mãn nhu cầu cá nhân đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất biệt dược gây nghiện của Nhà nước, gây mất trật tự trị an xã hội. Từ tệ nạn ma túy làm nảy sinh nhiều loại tội phạm khác, gây nhức nhối cho toàn xã hội. Do đó, cần phải xử lý nghiêm bị cáo bằng pháp luật hình sự và có hình phạt tù tương xứng đối với hành vi phạm tội của bị cáo.

[4]. Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì thấy: Tại Bản án số 133/2022/HS-ST ngày 30/8/2022 của Tòa án nhân dân huyện Việt Yên xử 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 17/3/2023, chưa được xóa án tích nay lại phạm tội mới. Do vậy, bị cáo phải chịu tình tiếp tăng nặng trách nhiệm hình sự là “tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[5]. Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6]. Xét về nhân thân của bị cáo thì thấy: Bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản; nhiều lần bị kết án về hành vi "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" và “chiếm đoạt tài sản”. Do vậy, để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo trở thành người tốt và răn đe phòng ngừa chung.

[7]. Xét về hình phạt bổ sung: Căn cứ biên bản xác minh của Cơ quan điều tra cho thấy. Bị cáo không có tài sản riêng, không có thu thập ổn định; bị cáo là người nghiệm ma túy. Do vậy không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8]. Đối với người đàn ông lái xe ôm bị cáo Đ khai nhờ mua hộ số ma túy, tuy nhiên Đ không biết tên tuổi, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh xử lý.

[9] Đối với xe mô tô biển kiểm soát 98B1- xxxxx đăng ký xe tên chị Nguyễn Thị Khuyên, sinh năm 1992, địa chỉ thôn Tân Tiến, xã Song Vân, huyện Tân Yên, tỉnh G, Đ khai mua của người không quen biết. Cơ quan điều tra làm việc với chị Khuyên cho biết: Chiếc xe trên ngày 29/8/2023 chị để ở nhà bị kẻ gian lấy trộm, chị đã trình báo đến Công an xã S, huyện Tân Yên, tỉnh G. Ngày 05/11/2023 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H đã có Quyết định tách vật chứng là chiếc xe mô tô trên để tiếp tục điều tra, xác minh theo quy định là đúng.

[10]. Về vật chứng của vụ án gồm:

- Đối với 01 phong bì chứa chất ma túy ký hiệu ‘”QT” đã được niêm phong là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu huỷ và 01 bao tải dứa không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

[11]. Cần tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

[12]. Về án phí: Bị cáo Lê Thế Đ phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2017 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Về căn cứ điều luật và hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt Lê Thế Đ 02 (Hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù được tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 21/9/2023.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;

điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì ký hiệu ‘”QT” bên trong đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định đã được niêm phong và 01 bao tải dứa.

(Toàn bộ đặc điểm vật chứng theo quyết định chuyển vật chứng số 94/QĐ-VKS-HH ngày 20 tháng 11 năm 2023 của Viện kiểm sát huyện H và Biên bản giao nhận vật chứng ngày 21/11/2023 giữa Công an huyện H và Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, tỉnh G).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2017 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Toà án:

Buộc bị cáo Lê Thế Đ phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị c- ưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6,7, 7a, 7b và 9 Lụât Thi hành án dân sự; thời hiêụ thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

21
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 105/2023/HS-ST

Số hiệu:105/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hiệp Hòa - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:08/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về