Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 105/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN CHÂU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 105/2022/HS-ST NGÀY 10/11/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 11 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 92/2022/TLST-HS ngày 03 tháng 10 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 105/2022/QĐXXST- HS ngày 26 tháng 10 năm 2022 đối với bị cáo:

Trần Minh T, sinh năm 1989 tại T; nơi cư trú: Khu phố 2, thị trấn T2, huyện T2, tỉnh T; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn V (đã chết) và bà Lê Thị Cẩm H; vợ con: chưa có; tiền án, tiền sự: Không có.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/6/2022 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 30 phút, ngày 27/6/2022, Trần Minh T điều khiển xe mô tô biển số 70H2-xxxx chở theo sau Nguyễn Bảo L, sinh năm 2002, ngụ khu phố 2, thị trấn T2, huyện T2, tỉnh N đến nhà Định Thị Ngọc T1, sinh năm 1990, ngụ ấp Tân H, xã Tân P, huyện T2 để mua ma túy về sử dụng. Khi đi đến đầu đường cách nhà T1 khoảng 50 mét, T để L xuống đứng chờ còn T điều khiển xe mô tô vào nhà T1 để mua ma túy. Tại nhà T1, T được T1 bán cho 01 bịch ma túy với số tiền 300.000 đồng, sau khi mua ma túy xong T cất giấu bịch ma túy vào trong túi quần Jean bên phải đang mặc và điều khiển xe mô tô quay ra chở L về hướng thị trấn T2 đề tìm chỗ sử dụng ma túy. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, khi T đi đến ấp Thạnh H1, xã Thạnh Đ, huyện T2 thì bị Công an huyện T phát hiện bắt quả tang thu giữ vật chứng là bịch ma túy trong túi quần của T.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T, Trần Minh T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

* Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng:

- 01 (Một) bì thư được niêm phong ghi số 758, có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Văn N, Trợ lý giám định Võ Tuấn K và dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T, bên trong có 01 (Một) bịch nylon chứa tinh thể rắn màu trắng (Ký hiệu M) là Methamphetamine có khối lượng 0,1232gam;

- 01 (Một) điện thoại di động hiệu Iphone, số Seri: F2LNHM6DG5QL;

- 01 (Một) điện thoại di động hiệu Iphone, số Seri: C39PHDT6G5MQ;

- 01 (Một) cái nỏ bằng thủy tinh bị vỡ;

- 01 (Một) đoạn ống hút nhựa;

- 01 (Một) cái nắp nhựa.

* Kết luận giám định số 785/KL-KTHS ngày 03/7/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an T, kết luận: Mẫu tinh thể rắn màu trắng bên trong 01 bịch nylon được hàn kín (kí hiệu M) gửi đến giám định là chất ma túy; Loại Methamphetamine; Khối lượng 0,2084 gam;

* Về kê biên tài sản: Trần Minh T không có tài sản nên Cơ quan điều tra không tiến hành kê biên.

Tại bản Cáo trạng số: 87/CT-VKSTC ngày 28/9/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh T truy tố bị cáo Trần Minh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

* Tại phiên tòa:

Bị cáo Trần Minh T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh T giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Trần Minh T từ 15 (Mười lăm) tháng đến 18 (Mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Lời nói sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là sai trái, bị cáo hối lỗi, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, tỉnh T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo thể hiện: Tại phiên tòa, bị cáo Trần Minh T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đã thực hiện như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong, bản kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa, đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 27/6/2022, tại khu vực ấp Thạnh H1, xã Thạnh Đ, huyện T2, tỉnh T, Trần Minh T có hành vi cất giấu ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng 0,2084gam, với mục đích để bản thân sử dụng thì bị bắt quả tang. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi của bị cáo Trần Minh T đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[3] Vụ án có tính chất nghiêm trọng; hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị tại địa phương nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình gây ra.

[4] Khi quyết định hình phạt có xem xét đến nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cho bị cáo.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có tài sản, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu huỷ toàn bộ số ma túy bị cáo cất giấu đã bị thu giữ, các dụng cụ bị cáo dùng để sử dụng ma túy.

- Trả lại cho bị cáo 02 điện thoại di động không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

[7] Đối với Nguyễn Bảo L có đi chung với T để mua ma túy về sử dụng nhưng không góp tiền mua ma túy, không có hành vi giúp sức cho T tàng trữ trái phép chất ma túy nên không xử lý hình sự đối với L.

Đối với Định Thị Ngọc T1 bán ma túy cho T đang bị khởi tố điều tra làm rõ trong vụ án khác.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Trần Minh T 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27/6/2022.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 (Một) bì thư được niêm phong ghi số 758, có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Văn N, Trợ lý giám định Võ Tuấn K và dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T, bên trong có 01 (Một) bịch nylon chứa tinh thể rắn màu trắng (Ký hiệu M) là Methamphetamine có khối lượng 0,1232gam;

- 01 (Một) cái nỏ bằng thủy tinh bị vỡ;

- 01 (Một) đoạn ống hút nhựa;

- 01 (Một) cái nắp nhựa.

- Trả lại cho bị cáo:

+ 01 (Một) điện thoại di động hiệu Iphone, số Seri: F2LNHM6DG5QL;

+ 01 (Một) điện thoại di động hiệu Iphone, số Seri: C39PHDT6G5MQ;

(Vật chứng đang được tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh T theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19 tháng 10 năm 2022) 3. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

4. Về án phí: Bị cáo Trần Minh T phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án hình sự sơ thẩm xử công khai, báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh T trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

49
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 105/2022/HS-ST

Số hiệu:105/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Châu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:10/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về