Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 105/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN THÀNH, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 105/2022/HS-ST NGÀY 27/12/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 12 năm 2022 tại phòng xử án, Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh B mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 95/2022/HSST ngày 29 tháng 11 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 101/2022/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 12 năm 2022 đối với:

Bị cáo Lò Văn B, sinh năm 2001.

Tên gọi khác: Không. Giới tính: Nam.

HKTT: Bản Khua Vai, xã Ngọc Chiến, huyện L, tỉnh S. Tạm trú: Thôn Thượng Thôn, xã Đông Tiến, huyện Y, tỉnh B. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Thái. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: Lớp 09/12. Bố đẻ: Lò Văn Đ, sinh năm 1980. Mẹ đẻ: Quàng Thị H, sinh năm 1980. Gia đình bị cáo có 03 anh em, bị cáo là con thứ hai trong gia đình.Vợ, con: Chưa có.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/9/2022 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện T (bị cáo có mặt tại phiên toà).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 20 giờ 30 phút ngày 23/9/2022, tại quán R Coffee thuộc ngã tư Đông Côi, thị trấn Hồ, huyện T, tỉnh B (do anh Lê Đăng T, sinh năm 1997 cùng địa chỉ trên làm quản lý). Tổ công tác của Công an huyện T phối hợp với Công an thị trấn Hồ đã phát hiện bắt quả tang Lò Văn B, sinh năm 2001, trú tại: Bản Khua Vai, xã Ngọc Chiến, huyện L, tỉnh S đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ tại túi quần phía trước bên phải B đang mặc 01 gói giấy bạc màu trắng, bên trong có chứa chất bột màu trắng và số tiền 500.000 đồng. B khai chất bột màu trắng là ma túy Heroine được người đàn ông tên T đưa cho B để sử dụng. Tổ công tác đã tiến hành lập B bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng theo quy định, đồng thời bàn giao đối tượng Lò Văn B cùng vật chứng cho Cơ quan CSĐT Công an huyện T để điều tra xử lý.

Cùng ngày 23/9/2022, Cơ quan CSĐT Công an huyện T ra Quyết định trưng cầu giám định vật chứng thu được khi bắt giữ B. Tại Kết luận giám định số 1547/KL-KTHS ngày 26/9/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 01 gói nhỏ bọc ngoài bằng giấy bạc màu trắng gửi giám định có khối lượng 0,2048 gam; Là ma túy; Loại ma túy: Heroine. Heroine là chất ma túy được quy định tại Nghị định 57/2022/NĐ-CP, ngày 25/8/2022 của Chính Phủ ban hành các danh mục chất ma túy và tiền chất.

Với nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 99/CT-VKSTT ngày 28/11/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố Lò Văn B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ Luật hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo B khai là người nghiện chất ma tuý từ năm 2021 đến nay. Bị cáo có quen biết một người bạn xã hội tên là T, khoảng 30 tuổi nhưng bị cáo không biết rõ địa chỉ cụ thể của T ở đâu. Khoảng 19 giờ ngày 23/9/2022, T rủ bị cáo xuống huyện T, tỉnh B, bị cáo đồng ý. Sau đó, cả hai cùng thuê xe Taxi từ huyện Y, tỉnh B đến huyện T, tỉnh B. Khi cả hai cùng ngồi trên ghế sau xe Taxi thì T có đưa cho bị cáo 01 gói giấy bạc màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng và bảo bị cáo cầm. Bị cáo biết gói giấy bạc T đưa có chứa chất ma túy vì trước đó cả hai đã cùng sử dụng ma túy tại huyện Y, tỉnh B. Nên bị cáo đã cầm gói ma túy T đưa đút vào túi quần phía trước bên phải bị cáo đang mặc để sau đó cả hai cùng sử dụng. Khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, khi đến địa bàn huyện T, B và T vào quán R Coffee, thuộc ngã tư Đông Côi, thị trấn Hồ, huyện T, tỉnh B để uống nước thì bị bắt giữ. Khi bị bắt giữ thì T đã chạy mất. Bị cáo thừa nhận hành vi của mình như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố là đúng người, đúng tội.

Trong phần tranh tụng, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T thực hành quyền công tố tại phiên toà trình bày luận tội. Sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lò Văn B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ Luật hình sự xử phạt B từ 13 đến 19 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 24/9/2022. Miễn áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.

Áp dụng Điều 47 Bộ Luật hình sự; Điều 106 Bộ Luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ số mẫu vật còn lại sau giám định trong phong bì thư có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B. Trả lại bị cáo số tiền 500.000 đồng nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án, miễn tiền án phí cho bị cáo vì gia đình bị cáo là hộ nghèo sống trong vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn.

Bị cáo B nhận tội, không có ý kiến tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát. Trong lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Lời khai nhận tội của bị cáo Lò Văn B tại cơ quan điều tra và tại phiên toà ngày hôm nay phù hợp với nhau, phù hợp với B bản bắt người phạm tội quả tang; phù hợp với thời gian, địa điểm, tang vật thu được tại hiện trường, lời khai của những người chứng kiến, kết luận giám định và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án xác định được: Vào hồi 20 giờ 30 phút ngày 24/9/2022, tại quán R Coffee thuộc ngã tư Đông Côi, thị trấn Hồ, huyện T, tỉnh B. Lực lượng Công an huyện T bắt quả tang Lò Văn B có hành vi tàng trữ trái phép 0,2048 gam chất ma túy Heroine trên người với mục đích sử dụng cho bản thân. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận hành vi của Lò Văn B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ Luật hình sự như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2]. Về nguyên nhân, mục đích, tính chất của hành vi phạm tội: Nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội là do bị cáo không chịu tu dưỡng bản thân, sa đà chơi bời và là người có dùng chất ma tuý, bị cáo phạm tội tàng trữ ma tuý với mục đích sử dụng cho bản thân. Tuy nhiên hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho cộng đồng và xã hội, đã xâm phạm chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội, về sâu xa nó cũng là nguyên nhân của các tệ nạn xã hội khác như trộm cắp, cướp giật cũng như gây lên mâu thuẫn trong gia đình, để lại hệ lụy xấu cho xã hội. Do vậy hành vi của bị cáo phải được xử lý nghiêm khắc bằng pháp luật hình sự mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Bị cáo phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy là loại tội phạm mà cả xã hội đang lên án mạnh mẽ và tích cực đấu tranh. Do vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án nghiêm khắc, phạt cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục chung, cải tạo riêng.

[3]. Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiện hình sự nào. Về tình tiết giảm nhẹ, tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo cũng đã nhận thức được tính chất nguy hiểm cho bản thân và xã hội khi sử dụng ma tuý. Vì thế bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ Luật hình sự. Đây là tình tiết để Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

Ngoài hình phạt chính điều luật còn quy định có thể áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo. Xét thấy bị cáo là người có dùng ma tuý, điều kiện kinh tế cũng có khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[3]. Đối với người đàn ông đi cùng với B nhưng khi Lực lượng Công an bắt giữ đã bỏ trốn, B khai tên là T nhưng không biết địa chỉ ở đâu, không có thông tin gì của T nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ, khi nào làm rõ được sẽ xử lý sau.

[4]. Tang vật vụ án: Mẫu vật còn lại sau giám định là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu huỷ. Đối với số tiền 500.000 đồng tạm giữ của B, đây là tài sản không liên quan đến tội phạm nên trả lại cho bị cáo.

[5]. Về án phí: Do bị cáo sống trong vùng có điều kiện kinh tế khó khăn nên miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lò Văn B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ Luật hình sự. Điều 106; Điều 136; Điều 329 Bộ Luật tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, tuyên xử.

Xử phạt Lò Văn B 13 (Mười ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 24/9/2022.

Quyết định tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án 27/12/2022 để đảm bảo thi hành án.

Về vật chứng của vụ án: Tịch thu tiêu huỷ mẫu vật chứng còn lại sau giám định trong phong bì thư có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B, bên ngoài phong bì có ghi “Mẫu vật còn lại sau giám định trong vụ án Lò Văn B, sinh năm 2001; HKTT Ngọc Chiến, L, S có hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Trả lại bị cáo B số tiền 500.000 đồng (Theo B bản giao nhận vật chứng ngày 9/12/2022 giữa Công an huyện T với Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh B).

Án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo B.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo B được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

57
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 105/2022/HS-ST

Số hiệu:105/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Thành - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:27/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về