Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 104/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI, TỈNH QUẢNG NGÃI

BẢN ÁN 104/2021/HS-ST NGÀY 30/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 11 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 136/2021/TLST-HS ngày 13 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 120/2021/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 10 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 69/2021/HSST-QĐ ngày 02-11-2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Đức P, sinh ngày 02-01-2003 tại tỉnh Quảng Ngãi. Nơi cư trú: Thôn P, xã Đ, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 10/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đức K và bà Phạm Thị T; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 18-8-2021 đến nay, có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Võ Quốc T, sinh năm 2001, địa chỉ: Thôn H, xã H, huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi, vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Công T, sinh năm 1983, địa chỉ: Số 54 đường T, phường N, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chiều ngày 04-7-2021 Nguyễn Đức P đi đến một hẻm đường Q, thành phố Quảng Ngãi (không nhớ rõ địa chỉ) gặp một người thanh niên (không rõ nhân thân, lai lịch) mua 02 viên ma túy thuốc lắc với số tiền 600.000 đồng để sử dụng. Mua được ma túy, P cất giấu trong túi quần. Đến khoảng 01 giờ, ngày 09- 7-2021 Nguyễn Đức P đang ở trong nhà nghỉ N tại thị trấn L, huyện T, tỉnh Quảng Ngãi cùng với Võ Quốc T thì T rủ P đến nhà nghỉ P ở đường H, phường T, thành phố Quảng Ngãi để cùng nhau sử dụng ma túy. P đồng ý rồi mặc quần áo và mang theo 02 viên ma túy giấu ở túi quần bên phải nhưng không cho T biết. Đến khoảng 01 giờ 50 phút cùng ngày, T điều khiển xe mô tô màu đỏ, nhãn hiệu “VISION”, biển số 76P1-020.68, chở P đi đến đoạn đường T thuộc tổ 8, phường C, thành phố Quảng Ngãi thì bị Cảnh sát cơ động Công an tỉnh Quảng Ngãi tuần tra, phát hiện và chuyển giao cho cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Quảng Ngãi bắt quả tang P đang cất giấu 02 viên ma túy thuốc lắc trong người.

Tại Kết luận giám định số 642/KLGĐ-PC09 ngày 18-7-2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi kết luận: 02 viên nén màu xanh không rõ hình dạng trong phong bì gửi giám định là ma túy, loại: Methamphetamine và MDMA, tổng khối lượng mẫu là: 1,15 gam.

MDMA là chất ma túy nằm trong danh mục I, STT 25, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15-5-2018 của Chính phủ.

Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15-5-2018 của Chính phủ.

Ngày 02-11-2021 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Quảng Ngãi ban hành văn bản số 1191/CSĐT đề nghị Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi cung cấp thêm thông tin về kết quả giám định chất ma túy thu giữ của Nguyễn Đức P: Trong tổng khối lượng 1,15 gam ma túy Methamphetamine và MDMA, khối lượng ma túy Methamphetamine là bao nhiêu? và khối lượng ma túy MDMA là bao nhiêu? Ngày 10-11-2021 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi ban hành văn bản số 649/PC09, nội dung văn bản xác định: Vì không tiến hành giám định định lượng nên không đủ căn cứ để xác định khối lượng của từng loại ma túy bên trong 02 viên nén màu xanh gửi giám định.

Quá trình điều tra, truy tố bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Cáo trạng số 100/CT-VKS ngày 11-10-2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi truy tố bị cáo Nguyễn Đức Phát về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi thay đổi nội dung quyết định truy tố, truy tố bị cáo Nguyễn Đức P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Điều Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, xử phạt bị cáo P từ 12 tháng đến 18 tháng tù. Về vật chứng đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Quảng Ngãi, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều đúng quy định của pháp luật.

[2] Anh Võ Quốc T vắng mặt tại phiên tòa, nhưng đã có lời khai trong quá trình điều tra và việc vắng mặt của người này không trở ngại cho việc giải quyết vụ án, do đó căn cứ vào Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.

[3] Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Đức P đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, xét lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với vật chứng thu giữ cùng các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án, do đó Hội đồng xét xử có cơ sở xác định: Chiều ngày 04-7-2021 Nguyễn Đức P mua 02 viên ma túy thuốc lắc của một người thanh niên tại một con hẻm của đường Q, thành phố Quảng Ngãi cất giấu trong người để sử dụng. Khoảng 01 giờ 50 phút ngày 09-7-2021, khi bị cáo đang trên đường đến nhà nghỉ P để sử dụng ma túy thì bị Cảnh sát cơ động Công an tỉnh Quảng Ngãi tuần tra, phát hiện bắt quả tang, thu giữ trên người bị cáo tổng khối lượng ma túy loại Methamphetamine và MDMA là: 1,15 gam. Ma túy loại Methamphetamine và MDMA được quy định trong cùng điểm c khoản của Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015. Với hành vi nêu trên, tại Cáo trạng 100/CT-VKS ngày 11-10- 2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi, truy tố bị cáo Phát về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi thay đổi nội dung quyết định truy tố, truy tố bị cáo Phát về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Xét, ma túy mà bị cáo tàng trữ là chất rắn thuộc loại ma túy Methamphetamine và MDMA, hai loại ma túy này được quy định trong cùng một điểm c khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự, có tổng khối lượng là 1,15 gam, nên thuộc trường hợp “Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này” được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó, việc thay đổi nội dung quyết định truy tố của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, mặc dù biết rõ tác hại của các chất ma túy đối với cộng đồng, xã hội nhưng để có ma túy sử dụng bị cáo đã mua ma túy từ một người không rõ nhân thân, lai lịch cất giấu để sử dụng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền về quản lý các chất ma túy của nhà nước và là nguyên nhân để gây ra nhiều tội phạm khác, gây mất trật tự an toàn xã hội. Do đó, cần áp dụng mức hình phạt nghiêm để răn đe, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt có ích cho xã hội và phòng ngừa chung tội phạm.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Các đối tượng có liên quan: Theo tài liệu có tại hồ sơ vụ án thể hiện: Đối với đối tượng Võ Quốc T có hành vi rủ Nguyễn Đức Pđến nhà nghỉ P sử dụng ma túy cùng nhóm bạn của mình vào rạng sáng ngày 09-7-2021 nhưng chưa kịp thực hiện thì Công an phát hiện, đồng thời Võ Quốc T không biết P mang theo ma túy trong người, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Quảng Ngãi không xử lý trách nhiệm hình sự đối với Võ Quốc T. Đối với đối tượng bán ma túy cho P trong hẻm đường Q, thành phố Quảng Ngãi, Nguyễn Đức P không nhớ đặc điểm nhận dạng, không biết nhân thân lai lịch của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Quảng Ngãi không có căn cứ xác minh, xử lý.

[7] Về xử lý vật chứng:

Đối với số ma túy cùng toàn bộ vỏ bao gói trong phong bì số 642/PC09(GĐ-2021), phong bì đã được niêm phong, đóng dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi. Đây là ma túy bị cáo tàng trữ trái phép nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 (một) điện thoại nhãn hiệu “Mi” cùng với thẻ sim điện thoại bên trong phong bì được niêm phong số: 643/PC09(GĐ-2021), có đóng dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi. Đây là điện thoại của bị cáo P, không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

Đối với 01 xe mô tô màu đỏ, nhãn hiệu VISION biển kiểm soát 76P1- 020.68, đứng tên trên giấy tờ xe là bà Huỳnh Thị N, tháng 11/2019 bà N bán xe này cho cửa hàng xe máy T, ngày 10-11-2019 cửa hàng xe máy T bán lại xe này cho anh Nguyễn Công T, anh T cho Võ Quốc T mượn. Việc T sử dụng xe chở bị cáo P đi sử dụng mà túy, anh T không biết, nên trả lại xe mô tô cho chủ sở hữu anh Nguyễn Công T.

[8] Đề nghị của Kiểm sát viên phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[9] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

Điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017Điều 106 và Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sựĐiều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt Nguyễn Đức P 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18-8-2021.

2. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định bên trong phong bì số: 642/PC09(GĐ-2021), phong bì đã được niêm phong, đóng dấu giáp lai của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi.

Trả lại cho Nguyễn Đức P: 01 (một) điện thoại nhãn hiệu “Mi” sau giám định cùng với thẻ sim điện thoại, được lưu giữ bên trong 01 phong số: 643/PC09(GĐ-2021), có đóng dấu giáp lai của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi.

Trả lại cho anh Nguyễn Công T 01 xe mô tô màu đỏ, nhãn hiệu VISION biển kiểm soát 76P1-020.68.

(Tất cả các vật chứng nêu trên có đặc điểm cụ thể theo biên bản giao nhận vật chứng ngày lập ngày 25-10-2021 giữa Công an thành phố Quảng Ngãi và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Quảng Ngãi).

3. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Đức P phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, anh Nguyễn Công T có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Võ Quốc T vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niên yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 104/2021/HS-ST

Số hiệu:104/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Quảng Ngãi - Quảng Ngãi
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về