Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 104/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH - TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 104/2020/HS-ST NGÀY 28/10/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 10 năm 2020 tại trụ sở, Tòa án nhân dân huyện Châu Thành tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 104/2020/HSST ngày 14 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa ra vụ án xét xử số 109/2020/QĐXXST- HS ngày 16 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:

- Họ và tên: Mai Thanh L - Sinh năm 1993, tại: tỉnh Tiền Giang.

- Nơi đăng ký thường trú và chổ ở hiện nay: ấp QL, xã NQ, thị xã CL, tỉnh Tiền Giang.

- Dân tộc: Kinh. Quốc tịch: Việt Nam. Tôn giáo: Không.

- Trình độ học vấn: 9/12.

- Nghề nghiệp: Không.

- Cha: Mai Văn T.

- Mẹ: Nguyễn Thị Huệ C.

- Vợ: Nguyễn Thị Mộng T1.

- Con: có 02 người, sinh năm 2014 và 2017.

- Nhân thân: Ngày 25/9/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang khởi tố vụ án hình sự và khởi tố bị cáo đối với Mai Thanh L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

- Tiền án: Không.

- Tiền sự: Ngày 05/8/2020 bị Tòa án nhân dân thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời hạn 14 tháng. Chưa chấp hành.

- Bị cáo Mai Thanh L bị tạm giữ từ ngày 23/8/2020, chuyển tạm giam từ ngày 26/8/2020 cho đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Châu Thành.

(Bị cáo có mặt tại phiên tòa) * Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Trần Thị Long L1, sinh năm 1974. Địa chỉ: Ấp QL, xã NQ, thị xã CL, tỉnh Tiên Giang (vắng mặt).

* Người làm chứng:

- Lê Văn T2, sinh năm 1984. Địa chỉ: Ấp BA, xã ĐH, huyện Châu Thành, tỉnh Tiên Giang (vắng mặt).

- Phạm Văn B, sinh năm 1978. Địa chỉ: Ấp TA, xã NB, huyện CT, tỉnh Tiền Giang (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào tối ngày 22/8/2020, bị cáo Mai Thanh L có hùn 100.000 đồng với T3 (không rõ họ, địa chỉ) mua ma túy để sử dụng. Sau khi mua T3 lấy một ít ma túy sử dụng số ma túy còn lại T3 đưa bị cáo cất giữ. Đến khoảng 10 giờ ngày 23/8/2020, bị cáo điều khiển xe mô tô hai bánh biển số 63B2 – 751.66 và đem số ma túy trên đến nhà trọ Phạm Văn B (sinh năm 1978, ĐKTT: ấp Trung A, xã Nhị Bình, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang) để sử dụng. Khi đến nhà của Phạm Văn B thì thấy B đang sửa xe phía trước và Lê Văn T2 đang ngồi trước cửa phòng nên bị cáo đi thẳng vào phòng và lấy ma túy ra để vào nỏ sử dụng thì bị lực lượng Công an kiểm tra phát hiện và bắt quả tang.

Vật chứng, đồ vật thu giữ:

- Một gói nylon bên trong có một đoạn ống thủy tinh một đầu được uốn cong (nỏ), bên trong có chứa tinh thể màu trắng, bên ngoài có chữ ký ghi họ tên: Mai Thanh L;

- Một xe mô tô 02 bánh biển số 63B2-75.166;

- Một điện thoại di động hiệu Samsung màu đen;

- Một bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy.

Tại bản kết luận giám định số 179/KLGĐ-PC09 ngày 24/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tiền Giang kết luận: Các mẫu tinh thể màu trắng trong một đoạn ống thủy tinh được uốn cong dạng nỏ, để trong một bì thư màu trắng được niêm phong có chữ ký ghi họ tên: Mai Thanh L, gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,1563 gam, loại Methamphetamine.

Về xử lý vật chứng: Ngày 03/10/2020, Cơ quan CSĐT – Công an huyện Châu Thành đã ra Quyết định xử lý vật chứng trao trả cho Mai Thanh L 01 điện thoại di dộng Samsung màu đen; trả cho Trần Thị Long L1 01 xe mô tô hai bánh biển số 63B2-751.66.

Vật chứng còn lại Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành đã ra quyết định chuyển Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành quản lý chờ xử lý.

Tại bản cáo trạng số 111/CT-VKSCT ngày 13/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành đã truy tố bị cáo Mai Thanh L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo qui định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

* Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Mai Thanh L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo qui định điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự và phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân, cùng các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, đã đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Mai Thanh L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự Xử phạt bị cáo Mai Thanh L từ 1 năm 3 tháng đến 1 năm 6 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ thời điểm bắt tạm giữ là ngày 23/8/20120.

- Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định và bộ dụng cụ sử dụng ma túy.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

* Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Châu Thành, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, nhân chứng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo. Xét thấy:

Tại phiên tòa, bị cáo Mai Thanh L đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố. Bị cáo cho rằng do nghiện ma túy nên đã mua ma túy về sử dụng và sau đó bị bắt quả tang khi đang chuẩn bị sử dụng.

Lời khai nhận tội trên của bị cáo cơ bản đã phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, lời khai của người làm chứng và các lời khai trước đây của bị cáo tại cơ quan điều tra, cùng các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy đã đủ cơ sở xác định bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo qui định điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Xét thấy, bị cáo là người đã thành niên, có sức khoẻ và khả năng nhận thức về hành vi phạm tội của mình là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ các chất ma túy là vi phạm pháp luật. Thế nhưng, để thõa mãn nhu cầu của cá nhân, bị cáo đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép các chất ma túy. Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự tương xứng với hành vi mà mình đã gây ra.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo nhận thức được chất ma túy là chất gây nghiện, khi sử dụng sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe và tinh thần của người sử dụng, là nguồn gốc phát sinh các tệ nạn xã hội, các loại tội phạm, xâm phạm đến quyền quản lý của nhà nước về các chất gây nghiện, nó cũng là nguyên nhân gây ảnh hưởng đến trật tự trị an ở địa phương. Vì vậy cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khoải xã hội một thời gian nhằm giáo dục bị cáo trở thành người có ích trong xã hội và phòng ngừa chung cho các đối tượng khác.

Tuy nhiên, sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo có thân nhân là người có công với cách mạng. Vì vậy, Hội đồng xét thấy cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

[4] Về xử lý vật chứng:

Số ma túy còn lại sau giám định chứa trong 01 bì thư được niêm phong vụ số 179, ghi ngày 24/8/2020 có chữ ký in họ tên: Nguyễn Thanh Trường (Giám định viên – bên giao), Nguyễn Quốc Phong (trợ lý giám định), chữ ký ghi họ tên: Nguyễn Ngọc Điệp (bên nhận) và hình dấu tròn màu đỏ có nội dung: PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ - CỒNG AN TỈNH TIỀN GIANG và 01 bộ dụng cụ dùng để sử sụng ma túy, cần tịch thu tiên hủy.

[5] Về đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nên chấp nhận.

* Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về Hình phạt

- Tuyên bố bị cáo Mai Thanh L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

 - Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử: Phạt bị cáo Mai Thanh L 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ thời điểm bắt tạm giữ là ngày 23/8/2020.

2. Về vật chứng:

- Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: Số ma túy còn lại sau giám định chứa trong 01 bì thư được niêm phong vụ số 179, ghi ngày 24/8/2020 có chữ ký in họ tên: Nguyễn Thanh Trường (Giám định viên – bên giao), Nguyễn Quốc Phong (trợ lý giám định), chữ ký ghi họ tên: Nguyễn Ngọc Điệp (bên nhận) và hình dấu tròn màu đỏ có nội dung: PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ - CỒNG AN TỈNH TIỀN GIANG và 01 bộ dụng cụ dùng để sử sụng ma túy.

(Các vật chứng trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/10/2020).

3. Về án phí: Bị cáo Mai Thanh L phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có nghĩa vụ, quyền lợi liên quan được quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày tính từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 104/2020/HS-ST

Số hiệu:104/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về