Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 103/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TN, TỈNH TN

BẢN ÁN 103/2023/HS-ST NGÀY 22/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố TN, tỉnh TN xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 107/2023/HSST ngày 20 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 100/2023/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:

Phạm Văn C (U), sinh năm 1983; tại tỉnh TN; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Số nhà 02, tổ 05, ấp NA, xã BN, Huyện DMC, tỉnh TN; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: không biết chữ; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Cao đài; con ông Phạm Văn H (đã chết) và con bà Thượng Thị D, sinh năm 1952; vợ: Trần Thị Ngọc H, sinh năm 1979 và có 02 con sinh năm 2011 và sinh sinh năm 2018;

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

Bản án số: 64/STHS ngày 24-9-2002 của Tòa án nhân dân thị xã TN, tỉnh TN áp dụng khoản 1 Điều 42; điểm h, p khoản 1 Điều 140 của Bộ luật Hình sự; xử phạt Phạm Văn C 06 (Sáu) tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Chấp hành xong ngày 07-12-2002, thuộc trường hợp đương nhiên xóa án tích.

Bản án số: 2582/HSPT ngày 23-11-2004 của Tòa phúc thẩm tại Thành Phố Hồ Chí Minh áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46, 1 điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự; xử phạt Phạm Văn C 07 (Bảy) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong ngày 05-3- 2009, đã được xóa án tích.

Bản án số: 34/2019/HSST ngày 27-6-2019 của Tòa án nhân dân huyện HT, tỉnh TN áp dụng điểm c, khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự; xử phạt Phạm Văn C 02 (Hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong ngày 19-02-2021, đã được xóa án tích.

Ngày 04-02-2022 bị Công an xã BN, Huyện DMC, tỉnh TN xử phạt hành chính mức phạt 1.500.000 đồng về hành vi “sử dụng trái phép chất ma túy” đã hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính.

Bị cáo đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn, bắt để tạm giữ ngày 02-8- 2023, chuyển tạm giam từ ngày 05-8-2023 tại Nhà tạm giữ Công an thành phố TN, tỉnh TN đến nay; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 00 giờ 20 phút ngày 02-8-2023, tại phòng số 1, nhà nghỉ Duy Thanh Th; địa chỉ: Hẻm số 02 đường Nguyễn Văn R, khu phố H, phường N, thành phố TN, tỉnh TN. Công an phường N, thành phố TN kiểm tra hành chính tại thời điểm kiểm tra có Phạm Văn C và Nguyễn Thị Ngọc H, sinh năm 1984, nơi cư trú: Số nhà 142, tổ 29 khu phố P, phường LH, thị xã HT, tỉnh TN phát hiện trên bàn gỗ trong phòng số 1 có một túi vải màu nâu trắng, có dây kéo, bên trong có 02 bịch nylon dạng kẹp đầu có chứa tinh thể rắn trong suốt. C khai nhận 02 bịch nylon trên chứa ma túy của C cất giấu để sử dụng nên tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Kết quả điều tra chứng minh được sau khi chấp hành án về tội “Tàng trữ trái phép chấp ma túy” Phạm Văn C về địa phương, đến tháng 02 năm 2022 tiếp tục tái nghiện. Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên khoảng 15 giờ ngày 01 tháng 8 năm 2023, C đón taxi đi từ nhà nghỉ Duy Thanh Th đến quán cafe gần khu vực bến xe Tây Ninh tìm gặp người tên T (không rõ họ tên, địa chỉ) hỏi mua ma túy, T bán cho C 01 bịch ma túy với giá 1.500.000 đồng. Sau đó, “T” giao cho C 01 túi vải màu nâu trắng có dây kéo, bên trong có 02 bịch nylon dạng kẹp đầu chứa ma túy. Sau khi mua được ma túy, C đón taxi về nhà nghỉ Duy Thanh Th. Khi vào phòng thấy H đang nằm ngủ, C để túi vải chứa ma túy lên bàn gỗ trong phòng rồi đi ngủ, đến 00 giờ 20 phút ngày 02-8-2023 thì bị Công an phát hiện, bắt giữ.

Quá trình điều tra Phạm Văn C thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Kết luận giám định số: 1217/KL-KTHS ngày 03-8-2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TN kết luận: Mẫu tinh thể rắn trong suốt bên trong 02 bịch nylon loại kẹp đầu gửi đến giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 2,7255 gam.

Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng:

- 01 (Một) bì thư niêm phong ghi vụ số: 1217/KL-KTHS ngày 03-08- 2023 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Văn N, trợ lý giám định Nguyễn Hoàng Chi M và đóng dấu tròn đỏ của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TN.

Bên trong có 01 bịch nylon chứa tinh thể rắn trong suốt (bút lục 32).

Cáo trạng số: 106/CT-VKSTPTN ngày 18-10-2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN, tỉnh TN đã quyết định truy tố bị cáo Phạm Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Tại tòa, bị cáo C thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố.

Tại Tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN thực hành quyền công tố giữ nguyên Cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phạm Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Trong phần tranh luận, vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo bị cáo C từ 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng đến 02 (Hai) năm tù.

Áp dụng khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự: Không áp dụng hình phạt bổ sung vì bị cáo không có khả năng thi hành.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46; 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy:

- 01 (Một) bì thư niêm phong ghi vụ số: 1217/KL-KTHS ngày 03-08- 2023 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Văn N, trợ lý giám định Nguyễn Hoàng Chi M và đóng dấu tròn đỏ của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TN. Bên trong có 01 bịch nylon chứa tinh thể rắn trong suốt.

Bị cáo C không có ý kiến tranh luận, bào chữa.

Lời nói sau cùng của các bị cáo:

Bị cáo C rất hối hận về hành vi của bị cáo gây ra xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được án thấp nhất để bị cáo về lo cho 02 con và làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố TN; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại Tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện phù hợp với quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi của các bị cáo thể hiện:

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai người làm chứng; phù hợp vật chứng vụ án cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở xác định: Để có ma túy sử dụng, Phạm Văn C đã tàng trữ trái phép chất ma túy là loại Methamphetamine, khối lượng 2,7255 gam thì bị lực lượng Công an thành phố TN, tỉnh TN phát hiện bắt quả tang.

Hành vi của bị cáo C đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét về tính chất vụ án, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

[3.1] Vụ án mang tính chất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo C là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, làm lan truyền tệ nạn nghiện hút, tiêm chích ma túy trong cộng đồng dân cư, là một trong những nguyên nhân dẫn đến những tệ nạn khác trong xã hội, xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội, làm băng hoại giống nòi, là một trong những nguyên nhân gây lây lan căn bệnh HIV/AIDS và phát sinh các loại tội phạm khác.

Do đó, cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra để có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt có xem xét tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

[3.2] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Về nhân thân bị cáo C: Năm 2002, bị Tòa án nhân dân thị xã TN, tỉnh TN xử phạt 06 (Sáu) tháng tù về tội “Lam dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, đã chấp hành xong vào ngày 07- 12-2002; Năm 2003, bị Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân thành phố HCM xử phạt 07 (Bảy) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đã chấp hành xong ngày 05-3-2009; Năm 2019, bị Tòa án nhân dân huyện HT, tỉnh TN xử phạt 02 (Hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đã chấp hành xong vào ngày 19-02-2021; Ngày 04-02-2022; bị cáo C bị công an xã BN, Huyện DMC, tỉnh TN xử phạt vi phạm hành chính mức phạt 1.500.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” đã hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính cho thấy nhân thân của bị cáo C xấu.

[3.3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s, khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4] Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phat bổ sung cho bị cáo vì không có khả năng thi hành.

[5] Về xử lý vật chứng: Đối với những tài sản không còn giá trị sử dụng gồm:

- Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) bì thư niêm phong ghi vụ số: 1217/KL- KTHS ngày 03-08-2023 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Văn N, trợ lý giám định Nguyễn Hoàng Chi M và đóng dấu tròn đỏ của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TN. Bên trong có 01 bịch nylon chứa tinh thể rắn trong suốt.

[6] Trong phần luận tội, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN: Đề nghị áp dụng điều luật, xác định tội danh, xử lý vật chứng là có căn cứ, phù hợp với quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Về hình phạt, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN, tỉnh TN đề xuất chưa tương xứng với hành vi của bị cáo nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.

[7] Đối với người có tên “Tý” là người bán trái phép ma túy cho bị cáo C do không rõ tên, địa chỉ, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố TN chưa làm việc được, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

[8] Về án phí: Căn cứ Điều 135 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc Hội 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo C phải chịu 200.000 đồng án phí sơ thẩm hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Phạm Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Phạm Văn C 03 (Ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 02-8-2023.

2. Về hình phạt bổ sung: Căn cứ khoản 5 Điều 249 của Bộ Luật Hình sự: Miễn hình phạt bổ sung bị cáo Phạm Văn C vì không có khả năng thi hành.

3. Về các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46; 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) bì thư niêm phong ghi vụ số: 1217/KL- KTHS ngày 03-08-2023 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Văn N, trợ lý giám định Nguyễn Hoàng Chi M và đóng dấu tròn đỏ của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TN. Bên trong có 01 bịch nylon chứa tinh thể rắn trong suốt.

4. Về án phí: Bị cáo Phạm Văn C phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo đối với bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 103/2023/HS-ST

Số hiệu:103/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tây Ninh - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về