Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 103/2021/HSST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 103/2021/HSST NGÀY 21/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân huyện Thuận Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 112/2021/TLST-HS ngày 02/7/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 146/2021/QĐXXST-HS ngày 08/7/2021 đối với các bị cáo:

1. Lò Văn T, tên gọi khác: Không; sinh năm 1981 tại huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản C, xã T, huyện T, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lò Văn T2, sinh năm 1950 và bà Lò Thị P, sinh năm 1956; bị cáo có vợ là Cà Thị B, sinh năm 1983 và 02 con, con lớn sinh năm 2004, con nhỏ sinh năm 2009; không tiền án, tiền sự; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/4/2021 đến nay, có mặt.

2. Lò Văn T1, tên gọi khác: Không; sinh năm 1985 tại huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản C, xã T, huyện T, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lò Văn T2, sinh năm 1950 và bà Lò Thị P, sinh năm 1956; bị cáo có vợ là Quàng Thị B, sinh năm 1987 và 02 con, con lớn sinh năm 2008, con nhỏ sinh năm 2009; không tiền án, tiền sự; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/4/2021 đến nay, có mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Quàng Thị B, sinh năm 1987, địa chỉ: Bản C, xã T, huyện T, tỉnh Sơn La, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 18 giờ 00 phút ngày 05/4/2021, tổ công tác Đội hình sự Công an huyện Thuận Châu làm nhiệm vụ tại khu vực tiểu khu 1, Thị trấn T, huyện Thuận Châu, phát hiện bắt quả tang Lò Văn T, sinh năm 1981 điều khiển xe máy chở theo Lò Văn T1, sinh năm 1985, cùng trú tại bản C, xã T, huyện T, tỉnh Sơn La có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 (một) gói ni lon màu xanh bên trong có chứa chất bột cục màu trắng nghi là Heroine và 01 (một) viên nén màu hồng nghi là ma túy tổng hợp (Theo Lò Văn T và Lò Văn T1 khai nhận là Heroine và ma túy tổng hợp); 01 (một) xe máy, bưởng máy bên phải nhãn hiệu BELITA, bưởng máy bên trái nhãn hiệu ROSSINO, không rõ loại xe, không có yếm, không có BKS, xe đã qua sử dụng, cũ, nát.

Hồi 22 giờ 10 phút ngày 05/4/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thuận Châu đã tiến hành bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng và lấy mẫu giám định, kết quả: Cân tịnh số bột cục màu trắng có khối lượng 0,21 gam (Không phẩy hai mươi mốt gam), trích rút toàn bộ 0,21 gam ký hiệu TH1 gửi giám định chất và loại ma túy. Cân tịnh 01 viên nén màu hồng có khối lượng 0,10 gam (Không phẩy mười gam), trích rút toàn bộ 0,10 gam ký hiệu TH2 gửi giám định chất và loại ma túy.

Tại Kết luận giám định số: 748/KLMT ngày 10/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu TH1 là ma túy; loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,21 gam. Mẫu gửi giám định ký hiệu TH2 là ma túy; loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,10 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,21 gam loại Heroine và 0,10 gam loại Methamphetamine”. Tổng khối lượng 2 loại ma túy bị thu giữ là 0,31 gam.

Quá trình điều tra Lò Văn T, Lò Văn T1 đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 17 giờ 00 phút ngày 05/4/2021, Lò Văn T đang đi bộ một mình chơi trong bản C, xã T, huyện T thì gặp em trai ruột của T là Lò Văn T1 ở cùng bản C, xã T, điều khiển xe máy đi đến. Gặp nhau, T rủ T1: “Em có tiền không? Góp cùng anh đi tìm mua ma túy về cùng nhau sử dụng.” T1 đồng ý rồi lấy ra số tiền 130.000đ (Một trăm ba mươi nghìn đồng) đưa cho T để góp tiền mua ma túy. T cầm tiền T1 đưa rồi lấy ra số tiền 70.000d (Bảy mươi nghìn đồng để góp tiền mua ma túy cùng T1. Sau đó, T cầm số tiền do hai người góp chung rồi T1 điều khiển xe máy chở T đi lên Thị trấn T, huyện Thuận Châu để tìm mua ma túy. Khi đi đến Tiểu khu 01, Thị trấn T, huyện Thuận Châu, T và T1 gặp một người đàn ông dân tộc Thái (T, T1 không biết tên và địa chỉ cư trú) đang đứng ở bên đường Quốc lộ 6, tiểu khu 1, Thị trấn T, huyện Thuận Châu, Thuận dừng xe lại để T hỏi người đàn ông đó: "Anh có Heroine và hồng phiến không? Bán cho em 200.00đ?”, người đàn ông đó nói “Có”. T đưa số tiền 200.000đ cho người đàn ông và nhận lại 01 gói nilon màu xanh, bên trong có chứa 01 viên hồng phiến và một ít Heroine. T cầm gói ma túy vừa mua được ở lòng bàn tay phải rồi T1 điều khiển xe máy chở T đi về để tìm chỗ sử dụng ma túy. Khi T và T1 đi được khoảng 100m thuộc Tiểu khu 01, Thị trấn T, huyện Thuận Châu thì bị Tổ công tác Công an huyện Thuận Châu yêu cầu kiểm tra ma túy và phát hiện gói ma túy T đang cầm ở lòng bàn tay phải nên tổ công tác đã tạm giữ tang vật, dẫn giải T, T1 về Ủy ban nhân dân Thị trấn T, huyện Thuận Châu để lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Do có hành vi nêu trên, tại Cáo trạng số 91/CT- VKS ngày 02 tháng 7 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu đã truy tố các bị cáo Lò Văn T, Lò Văn T1 về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà, các bị cáo Lò Văn T, Lò Văn T1 đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân huyện Thuận Châu đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố các bị cáo Lò Văn T, Lò Văn T1 về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân huyện Thuận Châu giữ quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

- Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 38, Điều 58 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố các bị cáo Lò Văn T, Lò Văn T1 phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Lò Văn T từ 14 đến 20 tháng tù.

Xử phạt bị cáo Lò Văn T1 từ 14 đến 20 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với các bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ Luật Hình sự;

điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên:

Tịch thu tiêu hủy: 0,12 gam Heroine không sử dụng hết trong quá trình giám định; 01 mảnh nilon màu xanh; 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu giám định đã bóc mở.

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 01 (một) xe máy, bưởng máy bên phải nhãn hiệu BELITA, bưởng máy bên trái nhãn hiệu ROSSINO, xe đã qua sử dụng, cũ, nát.

Miễn án phí hình sơ thẩm cho các bị cáo Lò Văn T, Lò Văn T1.

Tại phiên tòa, các bị cáo Lò Văn T, Lò Văn T1 thừa nhận hành vi phạm tội và không có ý kiến tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Quàng Thị B có ý kiến: chiếc xe máy Lò Văn T1 bị thu giữ là tài sản chung của gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử trả lại cho gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, thực hiện đúng thủ tục tố tụng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Ngày 05/4/2021 các bị cáo Lò Văn T, Lò Văn T1 đã có hành vi cất giữ trái phép 0,21 gam loại Heroine và 0,10 gam loại Methamphetamine”. Tổng khối lượng ma túy các bị cáo cất giữ trái phép là 0,31 gam với mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang tại khu vực tiểu khu 01, Thị trấn T, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La.

Tại phiên tòa các bị cáo giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, không bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án, các bị cáo hoàn toàn nhất trí với hành vi phạm tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với nhau và phù hợp với kết quả điều tra, phù hợp với: Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 18 giờ 30 phút ngày 05/4/2021 tại Trụ sở Ủy ban nhân dân Thị trấn T, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; Biên bản niêm phong vật chứng; Biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng, lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại vật chứng; Biên bản mở niêm phong và giao nhận đối tượng giám định; Kết luận giám định số 748 ngày 10/4/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La; lời khai của người chứng kiến.

Từ các căn cứ trên có đủ cơ sở kết luận các bị cáo Lò Văn T, Lò Văn T1 phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i “Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này” khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, có khung hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Quyết định truy tố và quan điểm luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La tại phiên tòa là có căn cứ đúng người, đúng tội, có căn cứ.

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự an ninh xã hội tại địa phương. Do đó cần có mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly các bị cáo khỏi xã hội một thời gian, nhằm răn đe giáo dục đối với các bị cáo, trên cơ sở xem xét vai trò của các bị cáo; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo.

Các bị cáo phạm tội với vai trò đồng phạm giản đơn, trong đó bị cáo Lò Văn T là người khởi xướng hành vi phạm tội, rủ Lò Văn T1 góp tiền đi mua ma túy; là người chỉ đường đi, trực tiếp trao đổi mua bán ma túy với người bán ma túy. Bị cáo Lò Văn T1 là người tiếp nhận ý chí, góp tiền mua ma túy và giúp sức, điều khiển xe chở Lò Văn T đến địa điểm mua ma túy. Do đó, cần áp dụng Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 để cá thể hóa hình phạt đối với các bị cáo.

Về nhân thân: Các bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Lò Văn T, Lò Văn T1 thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Bị cáo Lò Văn T, Lò Văn T1 không có tài sản, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[5] Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ: Các bị cáo Lò Văn T, Lò Văn T1 khai mua của một người đàn ông dân tộc Thái ở khu vực bản tiểu khu 01, Thị trấn T, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La với giá 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) vào ngày 05/4/2021. Quá trình điều tra xác định Lò Văn T, Lò Văn T1 không biết họ tên, tuổi, địa chỉ của người đàn ông đó, do đó Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Thuận Châu không có đủ căn cứ để điều tra, xử lý.

[6] Vật chứng vụ án:

Đối với 0,12 gam Heroine không sử dụng hết trong quá trình giám định là chất ma túy, thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy cùng 01 mảnh nilon màu xanh, 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, 01 vỏ phong bì cũ gửi giám định là công cụ phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội và không còn giá trị sử dụng theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đối với 01 (một) xe máy, bưởng máy bên phải nhãn hiệu BELITA, bưởng máy bên trái nhãn hiệu ROSSINO, xe đã qua sử dụng, cũ, nát thu giữ của bị cáo Lò Văn T1, là tài sản chung của gia đình bị cáo, việc bị cáo sử dụng vào việc phạm tội gia đình bị cáo không biết, cần trả lại cho vợ bị cáo theo quy định tại khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[7] Về án phí: Bị cáo Lò Văn T thuộc hộ cận nghèo, bị cáo Lò Văn T1 thuộc hộ nghèo, cần áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm cho bị cáo Lò Văn T, Lò Văn T1.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố các bị cáo Lò Văn T, Lò Văn T1 phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Lò Văn T 22 (hai mươi hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 05/4/2021).

- Xử phạt bị cáo Lò Văn T1 20 (hai mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 05/4/2021).

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với các bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a, c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: Một phong bì niêm phong có viền màu xanh đỏ, mặt trước ghi: Vật chứng nhập kho vụ Lò Văn T cùng đồng phạm - Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 05/4/2021. Mặt sau phong bì, dán giấy niêm phong của Công an tỉnh Sơn La số: 024511 đè lên các mép dán của phong bì, trên giấy niêm phong có đầy đủ chữ ký, họ tên của các thành phần tham gia niêm phong, người bị bắt và 02 hình dấu đỏ của cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu, bên trong có: 01 mảnh nilon màu xanh + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu; Một phong bì niêm phong mặt trước ghi: Vật chứng vụ: Lò Văn T cùng đồng phạm - Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 05/4/2021. Gồm có: Phong bì niêm phong mẫu gửi giám định đã bóc mở + 01 túi nilon màu trắng có chứa chất bột màu trắng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu TH1, không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng 0,12 gam. Mặt sau dán giấy niêm phong Công an tỉnh Sơn La, có số seri: 051772 đè lên các mép dán của phong bì, trên giấy niêm phong có 03 dòng chữ ký kèm 03 dòng họ tên và 02 hình dấu đỏ của Phòng KTHS Công an tỉnh Sơn La;

Trả cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Quàng Thị B: Một xe máy, bưởng máy bên phải nhãn hiệu BELITA, bưởng máy bên trái nhãn hiệu ROSSINO, xe không có yếm, không biển số, đã qua sử dụng cũ, nát.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/7/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện Thuận Châu và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuận Châu).

3. Về án phí: Căn cứ áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lò Văn T, Lò Văn T1.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Các bị cáo Lò Văn T, Lò Văn T1 được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đến vụ án có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm ./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 103/2021/HSST

Số hiệu:103/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về