TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỒNG NGỰ, TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 10/2024/HS-ST NGÀY 12/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 12 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Đ, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 03/2024/TLST- HS ngày 31 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2024/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 02 năm 2024, đối với bị cáo:
Lê Văn Q, sinh ngày 20 tháng 01 năm 2000; Nơi sinh: Đ; Nơi cư trú: Ấp L, xã L, huyện H, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn:
5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Hửu P và bà Nguyễn Thị Hường E (chết); vợ con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Chưa có; tạm giữ: Ngày 19/11/2023; tạm giam: Ngày 28/11/2023; có mặt.
- Người tham gia tố tụng khác: Người làm chứng Lê Hữu P1, Lâm Văn Đ, Chiêm Bích N (đều vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 23 giờ 40 phút, ngày 18/11/2023, do có nhu cầu sử dụng ma túy, Lê Văn Q điều khiển xe mô tô biển số 47F1-xxxxx (mượn của Lâm Văn Đ) đến gần phà M, thuộc thành phố H mua ma túy của người thanh niên (không rõ họ tên địa chỉ) với giá 500.000 đồng. Sau khi nhận ma túy, Q cất giấu trong ống quần bên trái đang mặc trên người và điều khiển về xã L, để tìm bạn tên “Tám Báo” không rõ họ chữ lót địa chỉ cụ thể rủ sử dụng ma túy nhưng không tìm được (do điện thoại bị hư hỏng không liên lạc được). Sau đó, Lê Văn Q điều khiển xe về nhà ở xã L B. Đến khoảng 00 giờ 20 phút, ngày 19/11/2023, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về hình sự, kinh tế, ma túy Công an huyện H phối hợp với Công an xã L, đang tuần tra đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn, phát hiện Q đang điều khiển xe mô tô, có biểu hiện nghi vấn, nên tổ công tác ra yêu cầu dừng phương tiện để kiểm tra. Khi phát hiện lực lượng Q bỏ chạy, trong lúc chạy, Q làm rơi 01 túi nylon hàn kín bên trong có chứa ma túy nên lực lượng Công an lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.
Tại bản kết luận giám định số 1281/KL-KTHS ngày 23/11/2023 của Phòng K1 công an tỉnh Đ, kết luận: Tinh thể rắn chứa trong 01 túi nylon hàn kín, được niêm phong trong phong bì giấy nêu trên gửi đi giám định là chất ma túy, có khối lượng 0,406 gam, loại Methampetamine.
Vật chứng thu giữ: 01 (một) túi nylon được hàn kín, bên trong có chứa nhiều tinh thể rắn; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A5, màu đỏ, bị hư hỏng; có thẻ sim V (tất cả đã qua sử dụng).
01 (một) xe mô tô, biển số 47F1-xxxxx (đã qua sử dụng), thuộc quyền sở hữu của Lâm Văn Đ cho Q mượn, không biết sử dụng vào việc phạm tội nên ngày 05/01/2024, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trao trả lại cho Lâm Văn Đ.
Tại Cáo trạng truy tố số 07/CT-VKSHN ngày 29 tháng 01 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Đ; luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa, đề nghị:
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự (sau đây viết tắt là BLHS), xử phạt bị cáo Lê Văn Q từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 BLHS, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị tịch thu tiêu hủy mẫu tinh thể rắn còn lại sau giám định; sung quỹ nhà nước điện thoại Oppo A5 do sử dụng vào việc phạm tội.
Đối với người thanh niên không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể, bán ma túy cho bị cáo qua điện thoại nhưng bị cáo không nhớ rõ số mấy, vì điện thoại bị hư hỏng chỉ nhớ số 75, Cơ quan điều tra đã yêu cầu cơ quan chuyên môn tra cứu thông tin nhưng chưa có kết quả nên không làm việc được, khi nào làm việc được xử lý sau.
Bị cáo Q không bào chữa, tranh luận, chỉ nói lời sau cùng: Xin được giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Đ, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với quy định của pháp luật. Bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Lê Văn Q khai nhận hành vi của mình như nội dung Cáo trạng, phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ thu thập trong hồ sơ vụ án, chứng minh được:
[3] Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự; bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy Methamphetamine có tổng khối lượng là 0,406 gam, nhằm mục đích để sử dụng và đã bị bắt quả tang. Do đó, đã đủ căn cứ kết luận hành vi của bị cáo Lê Văn Q phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS. Điều luật quy định như sau:
“Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
…c) …Methamphetamine… có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;… 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.” [4] Như vậy, Viện kiểm sát truy tố bị cáo Q là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[5] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Bị cáo nhận thức được hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý các chất ma túy, gây khó khăn cho việc kiểm soát chất ma túy của Nhà nước; ảnh hưởng nghiêm trọng đến an toàn, trật tự công cộng, sức khỏe và sự phát triển lành mạnh bình thường của con người. Ma túy là chất gây nghiện, chất hướng thần, việc mua bán, sử dụng phải được cơ quan chức năng của Nhà nước cho phép. Bởi lẽ, hậu quả của việc sử dụng trái phép chất ma túy gây ra cho xã hội là rất nặng nề, nó gây tác hại lâu dài cho nòi giống, phát sinh mâu thuẫn trong cộng đồng, làm tiêu hao tiền bạc của bản thân và gia đình của người sử dụng, gây tổn hại về tình cảm, ảnh hưởng đến đạo đức, thuần phong mỹ tục lâu dài của dân tộc. Đồng thời nó còn có thể làm phát sinh nhiều tệ nạn xã hội, tội phạm khác như: trộm cắp, mại dâm hoặc thậm chí giết người, cướp tài sản... Do đó, cần phải có mức hình phạt tương xứng, cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định nhằm giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt và có tác dụng phòng ngừa chung trong xã hội.
[6] Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự.
[7] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
[8] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải; chưa từng có tiền án, tiền sự, trình độ học vấn thấp nên nhận thức pháp luật hạn chế. Do đó, áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS để giảm nhẹ cho bị cáo khi quyết định hình phạt.
[9] Về trách nhiệm dân sự: Không có, nên không xem xét.
[10] Về vật chứng: Đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp nên chấp nhận.
[11] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có điều kiện kinh tế nên không áp dụng hình phạt bổ sung.
[12] Các vấn đề khác Viện kiểm sát không đề cặp là có căn cứ nên chấp nhận không xem xét trong vụ án này.
[13] Về án phí: Buộc bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự,
1.1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn Q phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”.
1.2. Xử phạt bị cáo Lê Văn Q 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 19 tháng 11 năm 2023.
2. Về xử lý vật chứng, căn cứ vào điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:
2.1. Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì giấy được niêm phong số 1295, ngày 19/11/2023 có chữ ký ghi họ tên của Nguyễn Văn Bé N1, Võ Văn K, Dư Văn T, Lê Văn Q và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng K1 - Công an tỉnh Đ.
2.2. Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu Oppo A5, màu đỏ, đã bị hư hỏng và 01 (một) thẻ sim V (đã qua sử dụng).
Vật chứng do Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Đ đang quản lý theo Biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 30 tháng 01 năm 2024.
3. Về án phí, căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 và Danh mục án phí, lệ phí tòa án kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Lê Văn Q phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 12 tháng 3 năm 2024).
5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án được thực hiện theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 10/2024/HS-ST
Số hiệu: | 10/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Hồng Ngự - Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về