Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 100/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 100/2022/HS-ST NGÀY 26/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Mã xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 102/2022/HSST ngày 01 tháng 4 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 102/2022/QĐXXST - HS ngày 13 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Văn B - Sinh năm 1987; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản C, xã M, huyện S, tỉnh Sơn La; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Viên chức y tế xã M; Chức vụ đoàn thể, đảng phái: Không; Con ông Lò Văn T và bà Lò Thị Q; Có vợ là Cà Thị L và 01 con (Sinh năm 2016); Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, giam từ ngày 23/12/2021 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Cà Thị L, sinh năm 1994. Trú tại: Bản C, xã M, huyện S, tỉnh Sơn La. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 13 giờ 25 phút, ngày 23/12/2021 tổ công tác Công an xã M, huyện S làm nhiệm vụ tại khu vực bản C, xã M, huyện S phát hiện Lò Văn B có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ tại túi quần phía bên trái của B 01 gói nilon màu trắng bên trong có chứa chất bột liên kết màu trắng, B khai nhận là heroine. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ, niêm phong vật chứng theo quy định, ngoài ra còn tạm giữ của B 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave α, BKS 26C1-175.93.

Ngày 24/12/2021 tại Công an huyện Sông Mã tiến hành mở niêm phong cân tịnh xác định khối lượng vật chứng nghi là ma túy, kết quả: chất bột liên kết màu trắng trong túi nilon màu trắng thu giữ của Lò Văn B có tổng khối lượng là 0,24 gam. Đã trích 0,05 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu B, vật chứng còn lại 0,19 gam ký hiệu L.

Tại Kết luận giám định số 107 ngày 25/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận:

“- Mẫu gửi gám định ký hiệu B là ma túy; Loại Heroine;khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,05 gam.

- Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,24 gam; Loại Heroine”.

Quá trình điều tra bị cáo khai nhận: Khoảng 17 giờ ngày 22/12/2021 B mang theo số tiền 100.000đ điều khiển xe mô tô BKS 26C1-175.93 đi từ nhà đến khu vực bản A, xã K, huyện S để tìm mua ma túy về sử dụng, khi đến bản A thì gặp một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết đi bộ ngược chiều, B hỏi mua được của người đàn ông này một gói Heroine với giá 100.000đ. Sau khi mua được ma túy, B cất giấu trong túi quần đang mặc rồi điều khiển xe mô tô đi về nhà. Đến khoảng 12 giờ ngày 23/12/2021, B mang theo số ma túy đi làm nương tại bản C, xã M, huyện S và trích một ít Heroine ra để sử dụng bằng hình thức đốt hít qua đường hô hấp. Số Heroine còn lại B cất giấu vào túi quần phía sau bên trái đang mặc rồi điều khiển xe mô tô đi về nhà. Khi về đến khu vực thuộc bản C, xã M, Sông Mã thì bị tổ công tác Công an xã M, S làm nhiệm vụ phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng nêu trên.

Do có hành vi nêu trên tại bản Cáo trạng số 35/CT-VKSSM ngày 30 tháng 3 năm 2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Sông Mã để xét xử Lò Văn B về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý. Căn cứ điểm c khoản 1, 5 Điều 249; Điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt Lò Văn B từ 16 – 20 tháng tù, phạt bổ sung từ 5.000.000đ – 10.000.000đ. Xử lý vật chứng: tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau khi trừ đi mẫu gửi giám định được đựng trong 01 túi nilon cùng 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu và 01 mảnh linon, trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan 01 xe mô tô BKS 26C1-175.93. Miễn án phí hình sự sơ thẩm, tuyên quyền kháng cáo cho bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Tại phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày: Chị là vợ của bị cáo Lò Văn B, chiếc xe mô tô BKS 26C1-175.93 là tài sản chung của vợ chồng chị và là phương tiện duy nhất của gia đình. Khi bị cáo sử dụng xe vào việc phạm tội chị không hay biết nên đề nghị HĐXX trả lại xe cho chị.

Tại phiên tòa các bị cáo nhất trí với nội dung bản cáo trạng và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, không có ý kiến tranh luận gì và khi được nói lời sau cùng các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, bị cáo nhất trí với ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng: Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Sông Mã, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về các chứng cứ xác định tội danh: Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ sau - Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập vào hồi 13 giờ 30 phút, ngày 23/12/2021 đối với Lò Văn B cùng vật chứng bị thu giữ là 01 gói chất bột màu trắng; Kết luận giám định số 107 ngày 25/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận là ma túy: “… Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,24 gam; Loại Heroine”.

- Lời khai bị cáo về việc đã thường xuyên sử dụng ma tuý từ năm 2019 nên ngày 23/12/2021 đã hành vi tàng trữ Heroine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang.

- Lời khai nhận tội của bị cáo về thời gian địa điểm, diễn biến của hành vi phạm tội tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo không có thay đổi, bổ sung gì về lời khai làm thay đổi nội dung vụ án. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc đã thực hiện.

Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng quy định của pháp luật.

Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 23/12/2021 bị cáo đã có hành vi tàng trữ 0,24 gam Heroine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ. Hành vi bị cáo thực hiện đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, có mức hình phạt từ “01 năm đến 05 năm tù”.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:

Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng, bị cáo nhận thức được việc tàng trữ chất ma tuý là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện tội phạm, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an ở địa phương, là mầm mống phát sinh các loại tội phạm khác, gây bức xúc trong xã hội.

[4] Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Tại phiên toà và tại cơ quan điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có bố đẻ là người có công với cách mạng được tặng thưởng huy chương kháng chiến hạng nhì nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Vì vậy, cần có một mức án tương xứng với tính chất và mức độ của hành vi phạm tội trên cơ sở cân nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân và khối lượng ma túy bị cáo thực hiện hành vi phạm tội để đưa ra một mức án phù hợp nhất, nhằm giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và cũng đảm bảo biện pháp răn đe, phòng ngừa chung, góp phần thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tệ nạn ma tuý tại địa phương.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo trước khi thực hiện hành vi phạm tội có nghề nghiệp là Viên chức y tế xã và có thu nhập ổn định với mức lương 8.000.000đ/tháng do vậy cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[6] Về vật chứng vụ án: Đối với số ma túy còn lại sau khi trừ đi mẫu gửi giám định được đựng trong 01 túi nilon cùng 01 mảnh nilon và 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu là những vật Nhà nước cấm tàng trữ lưu hành và không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 xe mô tô có BKS 26C1- 175.93 là tài sản chung của vợ chồng và là phương tiện duy nhất của gia đình, khi bị cáo sử dụng vào việc phạm tội vợ bị cáo không biết nên cần trả lại.

[7] Về các vấn đề khác có liên quan trong vụ án:

Về người đàn ông bị cáo khai là người đã bán ma túy cho bị cáo, bị cáo khai không biết rõ tên, địa chỉ cụ thể nên CQCSĐT không mở rộng điều tra vụ án là có căn cứ chấp nhận.

[8] Về án phí: Bị cáo là người đồng bào dân tộc thiểu số sống tại xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên được miễn án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Về điều luật áp dụng, tội danh và hình phạt:

Căn cứ điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự tuyên bố bị cáo Lò Văn B phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Lò Văn B 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23/12/2021.

Phạt bổ sung bị cáo 5.000.000đ (Năm triệu đồng).

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47; Điểm a, c khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở, 01 mảnh nilon và 0,19 gam Heroine được đựng trong 01 túi nilon; Tất cả được đựng trong 01 phong bì đã dán kín, niêm phong đúng quy định, mặt sau phong bì trên giấy niêm phong có mã số 080055.

Trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, màu sơn xanh, có BKS 26C1 – 175.93 Theo Quyết định chuyển vật chứng số 32/QĐ – VKS ngày 30/3/2022 của VKSND huyện Sông Mã và theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 06/4/2022 giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sông Mã.

3. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 23/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 26/5/2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 100/2022/HS-ST

Số hiệu:100/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về