TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THÀNH, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 100/2021/HSST NGÀY 17/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 17 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số: 101/2021/HSST, ngày 16 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 101/2021/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:
Võ Thị N, sinh ngày 20 tháng 3 năm 1993 tại xã T, huyện Y, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: xóm P, xã Đ, huyện Y, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Văn T và bà Hoàng Thị S; chồng: Vũ Hồng P và 3 con(nhỏ nhất mới hơn 5 tháng tuổi); tiền án, tiền sự: không; Tạm giữ: từ ngày 20/5/2021 đến 25/5/2021 cho bảo lĩnh, tại ngoại, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 9h 00 phút ngày 19/5/2021 Võ Thị N đi đến nhà Ngô Thanh B trú tại xóm Y, xã D, huyện D để hỏi nợ vì trước đó Bình có vay của Vũ Hồng P (chồng Nhạ) 5.000.000 đồng nhưng chưa trả. Khi đến nơi thì không gặp B ở nhà nên chiều tối cùng ngày N đã điện thoại cho B để hỏi nợ nhưng B nói “anh không có tiền mặt, em có lấy hàng thì lấy”, nghĩa là hỏi N có lấy ma túy để trừ nợ thì lấy, N là người sử dụng ma túy nên đồng ý lấy ma túy với mục đích để sử dụng dần. Khoảng 20 h cùng ngày B điện thoại cho N và bảo “anh bỏ trước ngõ nhà e rồi, gói ni lon màu đen, em ra mà lấy”, N hiểu ý B để gói ma túy trước khu vực cổng nhà nên đi ra cổng thì thấy 1 túi ni lon màu đen bên trong có 16 ống nhựa màu cam sọc trắng loại ống hút nước, bên trong mỗi ống có chứa các viên nén hình tròn màu hồng, có tổng cộng là 90 viên rồi đem bỏ vào 1 chiếc tất chân và giấu vào cốp xe mô tô của mình. Do sợ bị phát hiện nên khoảng hơn 14h ngày 20/5/2021 N đem số ma túy nói trên đi tìm nơi cất dấu thì bị tổ công tác Công an huyện Diễn Châu kiểm tra hành chính phát hiện bắt quả tang.
Đối với Ngô Thanh B qua lấy lời khai và đối chất nhưng Bình không thừa nhận đã đưa ma túy cho N để trừ nợ như N đã trình bày ở trên, nên chưa đủ căn cứ để xử lý đối với Bình.
Tại Bản kết luận giám định số 766/KL-PC09(Đ2-MT) ngày 24/5/2021 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: “Mẫu viên nén hình tròn màu hồng thu giữ của Võ Thị N gửi giám định là ma túy (Methamphetamine). Số viên nén hình tròn màu hồng (90 viên) thu giữ của Võ Thị N có tổng khối lượng là 9 gam”.
Tại bản cáo trạng số: 110/VKS-HS ngày 11/8/2021 của VKSND huyện Yên Thành đã truy tố Võ Thị N về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" quy định tại điểm g khoản 2 điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các quy định của pháp luật xử phạt bị cáo từ 5 năm đến 5 năm 6 tháng tù. Vật chứng đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật, đề nghị miễn hình phạt bổ sung. Bị cáo không có tranh luận gì, chỉ xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Căn cứ buộc tội: Xét về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, điều tra viên; Viện kiểm sát, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Tại phiên toà, bị cáo Võ Thị N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp lời khai trong quá trình điều tra và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Có đủ căn cứ kết luận bị cáo đã có hành vi tàng trữ 09 gam ma túy Methamphetamine với mục đích sử dụng dần cho bản thân. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 điều 249 BLHS là có căn cứ, đúng pháp luật.
Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, phạm tội thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy, gây nguy hại cho sức khỏe, tính mạng con người và là hiểm họa cho toàn xã hội. Vì thế, cần phải xử lý bằng biện pháp hình sự mới có tác dụng phòng ngừa tội phạm.
[2] Về tình tiết tăng nặng: Không.
[3] Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo có nhân thân tốt, có các tình tiết giảm nhẹ là quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, chồng bị cáo hiện đang bị bắt tạm giam về tội phạm liên quan đến ma túy, bản thân đang nuôi 3 con nhỏ(nhỏ nhất mới hơn 5 tháng tuổi). Vì vậy, nghĩ nên xem xét giảm nhẹ về hình phạt cho bị cáo nhằm thể hiện sự khoan hồng của pháp luật như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa cũng là phù hợp, song nhất thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để răn đe, cải tạo bị cáo.
[4] Về hình phạt bổ sung: Lẽ ra phải áp dụng khoản 5 điều 249 BLHS phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với bị cáo, nhưng xét bị cáo là người nghiện ma túy, không có nghề nghiệp ổn định, hoàn cảnh kinh tế gia đình rất khó khăn, một mình nuôi 3 con nhỏ, nghĩ nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ các quy định của pháp luật cần tịch thu tiêu huỷ toàn bộ số ma túy còn lại vì không có giá trị sử dụng. Đối chiếc điện thoại di động thu giữ của bị cáo xét có liên quan đến vụ án nên cần tịch thu hóa giá sung quỹ nhà nước. Đối chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA là tài sản chung của vợ chồng bị cáo, xét đây không phải là vật chứng vụ án nên cần tuyên trả lại cho bị cáo.
[6] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: điểm g khoản 2 điều 249; điểm s khoản 1 điều 51 BLHS.
[1] Xử phạt: Võ Thị N 5(năm) năm tù, về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam để thi hành án, được trừ thời gian đã bị tạm giữ từ ngày 20/5/2021 đến 26/5/2021.
[2] Xử lý vật chứng: Căn cứ điều 47 BLHS; điểm a, c khoản 2 điều 106 BLTTHS.
+ Tuyên trả lại bị cáo Võ Thị N: 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại Wave anpha màu trắng, BKS 37P1-447.03, xe đã qua sử dụng.
+ Tịch thu hóa giá sung quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 3310 màu xanh trắng, số Seri 1: 355754107626395, số Seri 2: 355754107826391, đã qua sử dụng.
+ Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì thư được niêm phong trên mép dán có đầy đủ chữ ký của Hội đồng tham gia niêm phong, chữ ký của bị cáo, bên trong có chứa 70 viên ma túy tổng hợp có khối lượng 7 gam, 16 đoạn ống hút nhựa màu cam sọc trắng, 01 chiếc tất màu xám và vỏ giấy niêm phong ban đầu.
(Vật chứng và tài sản đang do Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Thành quản lý theo phiếu nhập kho số NK141,142 ngày 13/8/2021).
[3] Án phí: Căn cứ khoản 2 điều 136 BLTTHS; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Buộc Võ Thị N phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
[4] Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có quyền kháng cáo bản án lên Toà án cấp phúc thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 100/2021/HSST
Số hiệu: | 100/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về