Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 09/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG TÈ, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 09/2023/HS-ST NGÀY 09/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 09 tháng 11 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 05/2023/TLST-HS ngày 04 tháng 10 năm 2023. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2023/QĐXXST- HS ngày 30/10/2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vàng Xè C; Tên gọi khác: không; Sinh năm 1969.

Nơi cư trú: bản Nậm Lọ, xã Can Hồ, huyện T, tỉnh Lai Châu; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ học vấn: không biết chữ; Dân tộc: Hà Nhì; Giới tính: nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Vàng Á X - (đã chết) và bà Vàng Lò N (đã chết); Bị cáo có vợ là Lỳ Lò P - sinh năm 1968 và có 03 con, con lớn nhất sinh năm 1987, con nhỏ nhất sinh năm 1995; Gia đình bị cáo có 08 anh chị em, bị cáo là con thứ tư trong gia đình; Tiền sự: Không. Tiền án: Bị can có 01 tiền án tại bản án hình sự sơ thẩm số 17/2021/H 5T, ngày 06/5/2021 của Tòa án nhân dân huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu sử phạt Vàng Xè C 01 năm tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy" Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/6/2023 cho đến nay (Có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: anh Vàng Hà C - sinh năm 1995

Nơi cứ trú: bản Nậm Lọ, xã Can Hồ, huyện T, tỉnh Lai Châu. (Có mặt)

- Người làm chứng: anh Lỳ C1 - sinh năm 1992 Nơi cứ trú: bản Nậm Hạ, xã Can Hồ, huyện T, tỉnh Lai Châu. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Buổi sáng ngày 18/6/2023, tại bản Nậm Lọ, xã Can Hồ, huyện T, trong lúc đi tìm mua Heroine để sử dụng. Vàng C gặp Lỳ C1 cũng đang đi tìm mua Heroine để sử dụng. Do chưa mua được Heroine nên hai người đã rủ nhau đi đến bản Đầu Nậm Xả, xã Bum Tở, huyện T để tìm mua Heroine (C và C1 không thống nhất về việc sẽ chuẩn bị bao nhiều tiền và mua Heroine với khối lượng bao nhiêu). Sau đó, C1 điều khiển chiếc xe mô tô mang biển kiểm soát 25M1-xxxxx, rồi chở C cùng nhau đi tìm mua Heroine. Khi đến bản Đầu Nậm Xả, C và C1 gặp được một người đàn ông dân tộc La Hủ, lạ mặt. Qua trao đổi, C1 đã nhờ người đàn ông này mua hộ được 01 gói Heroine với giá 50.000 đồng, còn C nhờ người đàn ông này mua hộ được 08 gói Heroine với giá 500.000 đồng. Trong quá trình nhờ mua Heroine, C1 và C đều tự chuẩn bị tiền, tự trao đổi về việc nhờ mua Heroine với người đàn ông lạ mặt. Sau khi mua được Heroine, C1 đã một mình sử dụng hết, còn C cất giấu toàn bộ 08 gói Heroine trên tay trái và không nói cho C1 biết việc mình đã mua được Heroine. Sau đó, C1 điều khiển xe mô tô chở C về nhà.

Đến khoảng 10 giờ 00 phút cùng ngày, khi C và Hà Chừ đi đến Km 278, Quốc lộ 4H thuộc địa phận Khu phố 9, thị trấn T, huyện T thì bị tổ công tác Công an thị trấn T phát hiện, bắt quả tang và thu giữ 08 gói Heroine của Vàng C. Tổ công tác Công an thị trấn T đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong toàn bộ vật chứng nói trên theo quy định của pháp luật.

Tại bản kết luận giám định tư pháp số 101/KLGĐ ngày 18/6/2023 của người giám định tư pháp theo vụ việc Công an huyện T, đã kết luận: tổng khối lượng chất bột khô, màu trắng thu giữ của Vàng C có khối lượng là 0,48 gam.

Tại bản kết luận giám định số 790/KL-KTHS ngày 21/6/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận vật chứng thu giữ của Vàng C:

08 Mẫu chất bột màu trắng (ký hiệu từ Mẫu 01 đến Mẫu 08) gửi giám định là ma túy, loại: Heroine Tại bản cáo trạng số 119/CT-VKS-MT ngày 03/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T tỉnh Lai Châu đã truy tố Vàng C về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố phân tích các tài liệu chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự. Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội tuyên bố bị cáo Vàng C phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" xử phạt bị cáo Vàng C mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Miễn án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự tịch thu tiêu hủy 09 mảnh nilon màu hồng.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng, không có ý kiến tranh luận đối với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tại phiên tòa trình bày: đã nhận lại chiếc xe máy nên không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì.

Tại lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện T, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2]. Về tính chất, mức độ, hành vi của bị cáo:

Xét lời khai nhận của bị cáo Vàng C tại phiên tòa ngày hôm nay phù hợp lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Lai Châu đã truy tố.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 10 giờ 00 phút, ngày 18/6/2023, tại Km 278, Quốc lộ 4H thuộc địa phận Khu phố 9, thị trấn T, huyện T, tỉnh Lai Châu, Vàng C đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,48 gam Heroine để sử dụng thì bị tổ công tác Công an thị trấn T, huyện T phát hiện, bắt quả tang và niêm phong vật chứng theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Vàng C có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Hành vi nêu trên của bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách quản lý đặc biệt về các chất ma tuý của Nhà nước, làm ảnh hưởng xấu tới trật tự trị an, an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo biết rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi tàng trữ trái phép 0,48 gam Heroine để sử dụng đã đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Vì vậy quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về tội danh, mức hình phạt và các vấn đề khác liên quan là hoàn toàn có cơ sở, phù hợp với tính chất, mức độ cũng như hành vi phạm tội của bị cáo nên cần chấp nhận.

[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Nhân thân: bị cáo Vàng C là người nghiện chất ma túy lâu năm. Bị cáo có 01 tiền án tại bản án hình sự sơ thẩm số 17/2021/H 5T, ngày 06/5/2021 của Tòa án nhân dân huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu sử phạt Vàng C 01 năm tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy" Tình tiết tăng nặng: ngày 06/5/2021 bị cáo đã bị Tòa án nhân dân huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu sử phạt 12 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy". Ngày 19/5/2022 bị cáo đã thi hành xong hình phạt nhưng đến ngày phạm tội mới bị cáo chưa được xóa án tích nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm Hình sự theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS.

Tình tiết giảm nhẹ: tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở xã có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, hiểu biết pháp luật còn hạn chế nên Hội đồng xét xử cần áp dụng cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 BLHS.

Do bị cáo là người nghiện chất ma túy, hành vi của bị cáo là nghiêm trọng, bị cáo đã có 01 tiền án về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" nhưng không lấy đó làm bài học mà vẫn tiếp tục phạm tội nên Hội đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ sức răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 triệu đồng, ... hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa, xét thấy bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở xã có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, công việc và thu nhập không ổn định. Vì vậy, Hội đồng xét xử xem xét không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5]. Về vật chứng của vụ án: 0,48 gam Heroine cơ quan điều tra Công an huyện T đã gửi toàn bộ đi giám định không hoàn lại mẫu vật nên Hội đồng xét xử không đề cập xử lý. 09 mảnh nilon màu hồng là vật bị cáo dùng vào việc phạm tội không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy. Chiếc xe máy bị cáo đã dùng để đi mua Heroine quá trình điều tra đã xác định là tài sản hợp pháp của anh Vàng Hà C, việc bị cáo dùng chiếc xe đi mua ma túy anh C không biết nên việc Cơ quan Điều tra đã ra quyết định trả lại chiếc xe máy cho anh C là hoàn toàn phù hợp.

[6]. Về những vấn đề khác:

Đối với người đàn ông dân tộc La Hủ lạ mặt mà theo lời khai đó là người đã đi mua hộ Heroine cho bị cáo đem về sử dụng: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra không xác định được người đó là ai nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét xử lý.

Đối với Lỳ C1 là người đã điều khiển xe mô tô chở Vàng C: Quá trình điều tra xác định C1 không biết việc C mua và tàng trữ Heroine, không thu giữ được Heroine của C1 nên Hội đồng xét xử không có căn cứ để xử lý.

Đối với Vàng Hà C là người đã cho bị cáo mượn xe để đi mua ma túy. Khi bị cáo mượn xe của anh C không nói về việc bị cáo đi mua ma túy, bị cáo dùng chiếc xe đi mua ma túy anh C không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

[7]. Về án phí: xét thấy bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Nên cần miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50; Điều 46; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự. Điểm a, c khoản 2 Điều 106; Điều 135, Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

1. Tuyên bố bị cáo Vàng C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt bị cáo Vàng C 02 năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 18/6/2023. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 09 mảnh nilon màu hồng.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện T với Chi cục Thi hành án Dân sự huyện T được lập vào hồi 14 giờ 30 phút ngày 16 tháng 10 năm 2023)

4. Án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình lên Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

57
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 09/2023/HS-ST

Số hiệu:09/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Tè - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:09/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về