Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 09/2022/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN H, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 09/2022/HSST NGÀY 12/01/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Mở phiên tòa công khai vào hồi 9 giờ 30 phút ngày 12 tháng 01 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận H, thành phố Hà Nội để xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 326/2021/HSST ngày 24/11/2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 315/2021/QĐXX- TA ngày 8/12/2021 đối với bị cáo:

Lê T, sinh ngày 26/9/1979 (Tên gọi khác: không); HKTT: P..., tập thể xí nghiệp in..., tổ ...,phường L,quận Đ, TP.H; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo, đảng phái: không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Con ông Lê Chí T, sinh năm: 1948; con bà Đỗ Thị Th, sinh năm: 1949; Vợ: Nguyễn Thị H, sinh năm: 1989; có 01 con SN: 2009; Tiền sự: không; Tiền án: Bản án số 115/2018/HSST ngày 27/4/2018 của Tòa án nhân dân quận Long Biên xử phạt 26 tháng tù, về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt ngày 27/12/2019.

*Nhân thân:

1. Bản án số 328 ngày 13/3/1996 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội và bản án số 1270 ngày 16/8/1997 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao xử phạt 15 tháng tù, về tội: “Cướp giật tài sản của công dân”. Chấp hành xong hình phạt ngày 02/12/1998 (được coi là không có án tích theo quy định tại Điều 107 Bộ luật hình sự năm 2015).

2. Quyết định số 470/QĐ-UBND ngày 04/02/2010 Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận Đống Đa, Hà Nội áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời hạn 24 tháng. Chấp hành xong ngày 04/10/2011.

3. Ngày 10/6/2012 bị Công an phường Láng Hạ, quận Đống Đa, Hà Nội xử phạt hành chính (phạt tiền) về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy (đã nộp tiền phạt ngày 11/6/2012).

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/9/2021 đến nay tại Trại tạm giam số 2- Công an thành phố Hà Nội. Có mặt

*Người làm chứng Anh Trịnh Phú H,sinh năm: 1969 Trú tại: P.., khu tập thể T.., phường T, quận Đ, TP. Hi. vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 29/9/2021, Lê T là đối tượng nghiện ma túy đi bộ từ nhà đến khu bãi rác Thành Công, phường Thành Công, quận Đống Đa, Hà Nội để tìm mua ma túy đá sử dụng. Đến nơi, Toàn gặp và mua của một người nam giới không quen biết 01 túi ma túy đá với giá 500.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, Toàn cất túi ma túy vào trong túi quần bên phải phía trước đang mặc rồi đi bộ ra khu vực ngõ 12 Nguyên Hồng, quận Ba Đình, Hà Nội rồi đi xe ôm của anh Trịnh Phú Hưng vào Hà Đông để sử dụng. Khi anh Hưng chở Toàn đến trước cửa khách sạn Anh Quân, địa chỉ: số 1 đường Thanh Bình, phường Mộ Lao, quận Hà Đông, Toàn bảo anh Hưng dừng xe (mục đích để Toàn vào khách sạn thuê phòng sử dụng ma túy). Khoảng 12 giờ cùng ngày, khi Toàn vừa xuống xe thì bị tổ công tác Công an phường Mộ Lao, quận Hà Đông làm nhiệm vụ, phát hiện bắt quả tang. Vật chứng thu giữ trong túi quần bên phải đang mặc của Toàn 01 túi nilong màu trắng kích thước (2x2)cm, bên trong chứa tinh thể màu trắng (Toàn khai là ma túy đá). Công an phường Mộ Lao đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Lê T, niêm phong vật chứng đưa về trụ sở, sau bàn giao cho Cơ quan CSĐT Công an quận Hà Đông điều tra xử lý.

Ngày 29/9/2021, Cơ quan điều tra ra quyết định trưng cầu giám định gói niêm phong thu giữ của Lê T nêu trên.

Tại bản kết luận giám định số 7177/KLGĐ-PC09 ngày 06/10/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự- Công an thành phố Hà Nội, kết luận: “Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilông là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng: 0,477 gam”.

Cáo trạng số 317/CT-HS ngày 15 tháng 11 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông truy tố Lê T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51;điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt Lê T từ 18 đến 21 tháng tù; đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; về tang vật đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật;

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa.

Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên và bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1} Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử thấy quá trình điều tra, truy tố Điều tra viên, kiểm sát viên đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

2} Về nội dung: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi vi phạm của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, tang vật chứng thu giữ, kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ chứng minh có trong hồ sơ vụ án. Do vậy có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 12 giờ ngày 29/9/2021, tại khu vực trước cửa khách sạn Anh Quân, tổ 1 đường Thanh Bình, phường Mộ Lao, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội, Lê T đang thực hiện hành vi cất giấu trong người 01 túi ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,477 gam, để sử dụng trái phép thì bị tổ công tác Công an phường Mộ Lao, quận Hà Đông phát hiện, bắt quả tang.

Hành vi nêu trên của Lê T đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản trên là có căn cứ, đúng pháp luật;

Hành vi nêu trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, chẳng những xâm hại đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của nhà nước mà còn là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội, các tội phạm khác, gây mất trật tự trị an trên địa bàn quận Hà Đông.

Bị cáo có nhân thân xấu trong đó có một tiền án chưa được xóa án tích nên hành vi phạm tội của bị cáo lần này thuộc trường hợp tăng nặng “tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Do vậy cần áp dụng hình phạt tù nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho xã hội và thực hiện biện pháp đấu tranh phòng ngừa chung.

Tuy nhiên khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xét đến thái độ khai báo thành khẩn được quy định tại điểm s khoản 1Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Do bị cáo không có việc làm và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.

[3] Về nguồn gốc ma túy bị thu giữ và đối tượng bán cho Lê T ngày 29/9/2021: Toàn khai mua của nam giới không quen biết tại khu bãi rác Thành Công, phường Thành Công, quận Đống Đa, Hà Nội. Ngoài lời khai của Toàn không có tài liệu nào chứng minh, không có cơ sở điều tra xử lý nên Tòa không xét.

[4] Đối với anh Trịnh Duy Hưng là lái xe ôm được Toàn thuê chở đến khách sạn Anh Quân địa chỉ: số 1 đường Thanh Bình, phường Mộ Lao, quận Hà Đông. Cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra xác định: Quá trình chở Toàn đi anh Hưng không biết được Toàn cất giấu ma túy trong người; nên không đề cập xử lý, là có căn cứ.

[5] Về tang vật: Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì niêm phong dán kín, tại các mép dán có chữ ký của Lê T, cán bộ công an phường Mộ Lao – Vương Văn Dũng và giám định viên Lê Khắc Nam.

[6] Về án phí: Bị cáo vi phạm pháp luật nên phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015;

- Căn cứ Điều 106; Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự

- Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1. Tuyên bố bị cáo Lê T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

2. Xử phạt Lê T 24 (hai mươi tư) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29/9/2021.

3. Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì niêm phong dán kín, tại các mép dán có chữ ký của Lê T, cán bộ công an phường Mộ Lao – Vương Văn Dũng và giám định viên Lê Khắc Nam.(theo biên bản giao nhận vật chứng tại Chi cục thi hành án quận Hà Đông, thành phố Hà Nội)

4. Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 09/2022/HSST

Số hiệu:09/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về