Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 08/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ GÒ CÔNG, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 08/2024/HS-ST NGÀY 25/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 25 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 46/2023/TLST-HS ngày 25 tháng 12 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2024/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 02 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên toà số: 03/2024/HSST-QĐ ngày 07 tháng 03 năm 2024 đối với bị cáo:

Nghiêm Minh H, sinh ngày 14/01/1997, tại thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang; Giới tính: Nam; Nơi đăng ký thường trú: Số 16 đường Thủ Khoa Huân, Khu phố 1, Phường 2, thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang; Nơi ở: Ấp Thuận An, xã Long Thuận, thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 7/12; Con ông Nghiêm Minh Hậu và bà Nguyễn Thụy Trang Bích Duyên, đã chết; Vợ, con: chưa có;

Tiền án: Không;

- Tiền sự: 01 lần. Cụ thể:

Ngày 25/5/2020, bị cáo H bị Tòa án nhân dân thị xã Gò Công áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời hạn 18 tháng do có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, theo Quyết định số 29/2020/QĐ-TA; bị cáo chưa thi hành.

Bị cáo bị tạm giữ ngày 08/9/2023, tạm giam từ ngày 14/9/2023, có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo H: Luật sư Nguyễn Hữu Th – Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh.

-Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Chị Trần Thị Hương L, sinh năm 2000 (Có mặt) Nơi cư trú: Ấp Giồng Tân, xã Tăng Hòa, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang.

2/ Bà Võ Mỹ Ph, sinh năm 1946 (Có mặt) Nơi cư trú: Số 23 Phan Bội Châu, khu phố 2, Phường 2, thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang.

Người làm chứng:

1/Ông Bùi Văn H, sinh năm 1965 (Vắng mặt) Nơi cư trú: Khu phố 3, Phường 5, thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang.

2/Anh Phan Quốc Tr, sinh năm 1986 (Vắng mặt) Nơi cư trú: Ấp Xóm Dinh, xã Long Thuận, thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Nghiêm Minh H bắt đầu sử dụng trái phép ma túy từ năm 2020, loại ma túy thường sử dụng là Methamphetamine (tên gọi khác: “ma túy đá”). Đến khoảng tháng 8/2023, bị cáo H chuyển qua sử dụng loại ma túy MDMA (tên gọi khác: “thuốc lắc”, “kẹo”) và Ketamine (tên gọi khác: “khây”).

Vào ngày 06/9/2023, để có ma túy sử dụng, bị cáo H đến khu vực ngã tư Nguyễn Văn Linh - Quốc lộ 50 thuộc huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh tìm gặp người đàn ông tên thường gọi là Thắng (H không biết rõ họ tên và địa chỉ của người này) để hỏi mua 5.000.000 (năm triệu) đồng ma túy gồm: 06 (sáu) viên thuốc lắc và 02 (hai) gói Ketamine. Sau khi có được ma túy, bị cáo H đem về cất giấu tại nhà địa chỉ: Số 16, đường Thủ Khoa Huân, Khu phố 1, Phường 2, thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang.

Đến khoảng 15 giờ ngày 08/9/2023, bị cáo H nhận được cuộc gọi của người bạn tên thường gọi là Dân (bị cáo không biết họ tên đầy đủ và địa chỉ) rủ bị cáo H đến Khách sạn “Tigon” tại Khu phố 4, Phường 5, thị xã Gò Công để cùng sử dụng ma túy, thì bị cáo H đồng ý. Bị cáo H mang theo 02 gói ny-lon có chứa 02 loại ma túy đã mua trước đó bỏ trong túi quần jean phía sau bên trái đang mặc. Trước khi đi đến gặp Dân, bị cáo H điều khiển xe mô tô hai bánh biển số 63B7-X chở bạn gái là Trần Thị Hương L từ nhà của bị cáo H về lại nơi thuê trọ của L là phòng trọ số 02 thuộc khu nhà trọ tại ấp Thuận An, xã Long Thuận, thị xã Gò Công do bà Võ Mỹ Ph làm chủ. Sau đó, bị cáo H điều khiển xe 63B7-X đi đến Khách sạn “Tigon”.

Đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, lực lượng phối hợp gồm Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy (PC08) - Công an tỉnh Tiền Giang, Đội đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội phạm - Bộ đội Biên phòng tỉnh Tiền Giang và Công an Phường 5, thị xã Gò Công khi tuần tra trên đường Thủ Khoa Huân, khu phố 4, Phường 5, thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang thì phát hiện bị cáo Nghiêm Minh H có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành chặn dừng để kiểm tra. Kết quả kiểm tra phát hiện trong túi quần Jean phía sau bên trái đang mặc có 02 (hai) gói ny-lon bên trong có chứa chất nghi là ma túy. Theo trình bày của bị cáo H, bên trong 02 ( hai) gói ny-lon là ma túy tổng hợp (“khây” và “kẹo”). Nên PC08 - Công an tỉnh Tiền Giang tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với bị cáo H về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ vật chứng, đồ vật liên quan; sau đó bàn giao đối tượng và tang vật cho Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã Gò Công.

Vật chứng, đồ vật liên quan thu giữ khi bắt quả tang gồm:

- 01 (một) gói ny-lon có màu trắng, hàn kín, có viền đỏ bên trong có chứa 04 (bốn) viên nén màu vàng bên trên có chữ “f” và 01 (một) gói ny-lon được hàn kín màu trắng bên trong có chứa nhiều tinh thể màu trắng nghi là ma túy;

- 01 (một) gói ny-lon màu trắng hàn kín có viền đỏ bên trong có chứa 02 (hai) viên nén màu vàng, bên trên có chữ “f” và 01 (một) gói ny-lon màu trắng được hàn kín, có một mặt có hình mặt cười màu đỏ bên trong có chứa nhiều tinh thể màu trắng nghi là ma túy;

Tất cả 02 (hai) gói ny-lon trên được cho vào 01 (một) bì thư niêm phong (Ký hiệu 01) có chữ ký ghi họ tên: Nghiêm Minh H, Bùi Văn Hùng, Nguyễn Văn Ánh, chữ ký in họ tên “Trung tá Vũ Thanh Phúc” và hình dấu tròn màu đỏ in chữ: “CÔNG AN PHƯỜNG 5 - CÔNG AN THỊ XÃ GÒ CÔNG - TỈNH TIỀN GIANG” trên bì thư;

- 01 (một) xe mô tô biển số 63B7-X nhãn hiệu Honda, loại SH Mode màu xám - đen, không kiểm tra tình trạng xe;

- 01 (một) điện thoại di động loại “Vivo” màu xanh, không kiểm tra bên trong máy.

Đến 18 giờ 30 phút cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an tỉnh Tiền Giang tiến hành khám xét khẩn cấp phòng trọ số 02, đây là nơi bị cáo H thường lui tới với Trần Thị Hương L. Kết quả khám xét, Cơ quan điều tra đã phát hiện, thu giữ:

- 01 (một) cân tiểu ly màu đen (đã qua sử dụng);

- 02 (hai) gói ny-lon màu trắng bên trong có chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy, tất cả được cho vào một bì thư niêm phong có chữ ký xác nhận của Nghiêm Minh H (Ký hiệu 02).

Theo lời khai của bị cáo H thì số ma túy thu giữ tại phòng trọ số 02 là của H mua của đối tượng tên Thắng tại Thành phố Hồ Chí Minh vào khoảng đầu tháng 9/2023 với giá 2.000.000 (hai triệu) đồng. Do khi bị cáo H sử dụng thì không đạt được cảm giác hưng phấn nên H bỏ lại số ma túy này tại phòng trọ của L.

Theo Kết luận giám định số 165/KL-KTHS ngày 11/9/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tiền Giang xác định chất ma túy có nội dung như sau:

- Gói 1 (Ký hiệu 01): Mẫu 06 (sáu) viên nén màu vàng có chữ “f” trên viên nén và các mẫu tinh thể màu trắng giám định là ma túy, có tổng khối lượng 6,8384 gam (trong đó, mẫu ký hiệu M1.1 có khối lượng 1,6068 gam, loại MDMA; mẫu ký hiệu M1.2 có khối lượng 2,4042 gam, loại Ketamine; mẫu ký hiệu M1.3 có khối lượng 0,7810 gam, loại MDMA và mẫu ký hiệu M1.4 có khối lượng 2,0464 gam, loại Ketamine).

- Gói 2 (Ký hiệu 02): Các mẫu tinh thể màu trắng gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 2,1300 gam, loại Ketamine (trong đó, mẫu ký hiệu M2.1 có khối lượng 2,0202 gam và mẫu ký hiệu M2.2 có khối lượng 0,1098 gam).

Các mẫu ký hiệu M1.1, M1.2, M1.4, M2.1 và M2.2 còn lại sau giám định có khối lượng lần lượt là: 0,7991 gam, 2,2587 gam, 1,9550 gam, 1,9622 gam và 0,0580 gam - được niêm phong trong 02 (hai) bì thư ký hiệu lần lượt vụ số:

165/1 và 165/2 ghi ngày 11/9/2023. Riêng mẫu ký hiệu M1.3 đã sử dụng hết cho công tác giám định.

Như vậy, tổng khối lượng ma túy mà Nghiêm Minh H tàng trữ bị phát hiện là: 2,3878 (hai phẩy ba tám bảy tám) gam ma túy loại MDMA và 6,5806 (sáu phẩy năm tám không sáu) gam ma túy loại Ketamine.

Cáo trạng số 01/CT-VKSTXGC ngày 25/12/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Gò Công đã truy tố bị cáo Nghiêm Minh H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

* Tại phiên tòa:

Bị cáo Nghiêm Minh H thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ đã thể hiện, không có ý kiến tranh luận bổ sung.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Gò Công giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Nghiêm Minh H từ 02 (Hai) năm tù đến 03 (Ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 08/9/2023.

+ Về vật chứng vụ án:

- Đề nghị tịch thu, tiêu hủy:

. 02 (hai) bì thư ký hiệu lần lượt vụ số: 165/1 và 165/2 ghi ngày 11/9/2023 (bên trong bì thư 165/1 có: 0,7991 gam ma túy là MDMA và 4,2137 gam ma túy là Ketamine; bên trong bì thư 165/2 có: 2,0202 gam ma túy là Ketamine).

. 01 (một) cân tiểu ly màu đen (đã qua sử dụng), bị cáo H dùng để chia ma túy ra sử dụng;

- Đề nghị tịch thu sung công quỹ nhà nước: 01 (một) điện thoại di động loại “Vivo” màu xanh, bị cáo H sử dụng để liên lạc với người cùng sử dụng chất ma túy;

- Trả lại cho chị Trần Thị Hương L: 01 (một) xe mô tô hai bánh biển số 63B7-X.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

* Người bào chữa cho bị cáo Nghiêm Minh H trình bày lời bào chữa: Thống nhất với tội danh của bị cáo theo như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có người thân trong gia đình có công với cách mạng (bác ruột là ông Nghiêm Minh Hiền là Thương binh hạng 2/4), cha của bị cáo là ông Nghiêm Minh Hậu có thành tích trong công tác chính quyền tại địa phương. Bị cáo bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nhưng chưa chấp hành, đây là chính sách hỗ trợ đi cai nghiện của Nhà nước, không phải tiền sự. Từ các tình tiết giảm nhẹ trên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để xét xử cho bị cáo bằng với thời gian tạm giam cũng đủ răn đe bị cáo trở thành người có ích cho xã hội..

* Lời nói sau cùng của bị cáo:

Bị cáo biết lỗi. Bị cáo phạm tội lần đầu mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để sớm về lo cho gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thị xã Gò Công, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Gò Công, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay kH nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nghiêm Minh H khai do nghiện ma túy nên vào ngày 08/9/2023, tại khu phố 4, Phường 5, thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang, bị cáo Nghiêm Minh H có hành vi tàng trữ trái phép 2,3878 (hai phẩy ba tám bảy tám) gam ma túy loại MDMA và 6,5806 (sáu phẩy năm tám không sáu) gam ma túy loại Ketamine; thì bị phát hiện bắt quả tang.

Do vụ án có hai chất ma túy khác nhau gồm: MDMA có trọng lượng được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự và Ketamine có trọng lượng được quy định điểm g khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Nên căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 5 Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2015, thì tổng khối lượng các chất ma túy trong vụ án này được xác định như sau:

- Tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của MDMA so với mức tối thiểu đối với MDMA quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự là: 2,3878 gam x 100/5 gam = 47,756%.

- Tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của Ketamine so với mức tối thiểu đối với chất ma túy khác ở thể rắn quy định tại điểm l khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự là: 6,5806 gam x 100/20 = 32,903%.

Tổng tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của cả hai chất MDMA và Ketamine là: 47,756% + 32,903%= 80,659%.

Do tổng tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của hai chất ma túy thu giữ là dưới 100% nên việc xem xét trách nhiệm hình sự trong vụ án này căn cứ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Do đó, Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự là có căn cứ.

[3] Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Ma túy là chất gây nghiện có tác hại rất lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của người sử dụng và là một trong những nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội, tội phạm hình sự khác.

Ngày 25/5/2020, Tòa án nhân dân thị xã Gò Công ra quyết định số 29/2020/QĐ-TA, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với Nghiêm Minh H, thời gian 18 tháng kể từ ngày bị tạm giữ để đưa đi cơ sở cai nghiện bắt buộc nhưng bị cáo chưa chấp hành.

Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và nhận thức rõ hành vi của mình bị pháp luật cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện, thể hiện thái độ xem thường pháp luật của bị cáo nên cần có mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo thay đổi nhận thức về ma túy, có ý thức tôn trọng pháp luật và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hội đồng xét xử nhận thấy trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì thái độ của bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có người thân trong gia đình có công với cách mạng (bác ruột là ông Nghiêm Minh Hiền là Thương binh hạng 2/4), cha của bị cáo là ông Nghiêm Minh Hậu có thành tích trong công tác chính quyền tại địa phương vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Theo lời khai của bị cáo H, người bán ma túy cho bị cáo tên thường gọi là Thắng; người hẹn cùng sử dụng ma túy tên thường gọi là Dân. Tuy nhiên, bị cáo chỉ biết tên thường gọi mà không biết rõ họ tên đầy đủ và địa chỉ cụ thể của hai đối tượng này; ngoài lời khai của bị cáo thì không có chứng cứ nào khác. Nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã Gò Công không đủ cơ sở để xác minh, làm việc.

Trần Thị Hương L là người đứng ra thuê phòng trọ số 02, chung sống cùng bị cáo H. Theo lời khai của bị cáo và Trần Thị Hương L thì việc bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy tại phòng thì Trần Thị Hương L không biết, cũng không giúp sức cho bị cáo. Ngày 08/9/2023, bị cáo để ma túy trên gác trong phòng trọ thì Trần Thị Hương L không biết, đến khi lực lượng Công an khám xét thì Trần Thị Hương L mới biết. Ngoài ra, khi Trần Thị Hương L cho bị cáo mượn xe mô tô hai bánh biển số 63B7-X thì không biết bị cáo H dùng làm phương tiện để đến nơi hẹn sử dụng chất ma túy.

Ngoài lời khai của Trần Thị Hương L, bị cáo thống nhất như nội dung nêu trên thì không có chứng cứ nào khác. Nên chưa đủ cơ sở để xem xét trách nhiệm hình sự đối với Trần Thị Hương L về hành vi không tố giác tội phạm và giúp sức cho bị cáo H thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với vai trò đồng phạm.

Việc xử lý của Cơ quan điều tra là có cơ sở nên Hội đồng xét xử ghi nhận. [6] Về vật chứng, xử lý vật chứng:

- Gói 1: 01 (một) Bì thư được niêm phong ký hiệu vụ số: 165/1 ghi ngày 11 tháng 9 năm 2023, có các chữ ký in họ tên: Nguyễn Thanh Trường (Giám định viên), Nguyễn Quốc Phong (Trợ lý giám định), chữ ký ghi họ tên: Phạm Thanh Trí (Bên nhận) và hình dấu tròn màu đỏ có nội dung: PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ - CÔNG AN TỈNH TIỀN GIANG. Bên trong có: 01 (một) gói nylon màu trắng được dán kín (kí hiệu M1.1) chứa 0,7991 gam là ma tuý còn lại sau giám định, loại MDMA (mẫu kí hiệu M1.1); 01 (một) gói nylon màu trắng được dán kín (kí hiệu M1.2) chứa 2,2587 gam là ma tuý còn lại sau giám định, loại Ketamine (mẫu kí hiệu M1.2); 01 (một) gói nylon màu trắng được dán kín (kí hiệu M1.4) chứa 1,9550 gam là ma tuý còn lại sau giám định, loại Ketamine (mẫu kí hiệu M1.4); 02 (hai) vỏ gói nylon màu trắng, có viền màu đỏ một đầu (loại túi zip); 01 (một) vỏ gói nylon màu trắng và 01 (một) vỏ gói nylon màu trắng, có hình mặt cười màu đỏ đều đã bị cắt một đầu để lấy mẫu giám định.

- Gói 2: 01 (một) Bì thư được niêm phong ký hiệu vụ số: 165/2 ghi ngày 11 tháng 9 năm 2023, có các chữ ký in họ tên: Nguyễn Thanh Trường (Giám định viên), Nguyễn Quốc Phong (Trợ lý giám định), chữ ký ghi họ tên: Phạm Thanh Trí (Bên nhận) và hình dấu tròn màu đỏ có nội dung: PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ - CÔNG AN TỈNH TIỀN GIANG. Bên trong có 01 (một) gói nylon màu trắng được dán kín (kí hiệu M2.1) chứa 1,9622 gam là ma tuý còn lại sau giám định loại Ketamine (mẫu kí hiệu M2.1); 01 (một) gói nylon màu trắng được dán kín (kí hiệu M2.2) chứa 0,0580 gam là ma tuý còn lại sau giám định, loại Ketamine (mẫu kí hiệu M2.2); 01 (một) vỏ gói nylon màu trắng và 01 (một) vỏ gói nylon màu trắng, có viền màu đỏ một đầu (loại túi zip) đều đã bị cắt một đầu để lấy mẫu giám định.

- 01 (một) cân tiểu ly màu đen (đã qua sử dụng), bị cáo H dùng để chia ma túy ra sử dụng;

Đây là chất Nhà nước cấm lưu hành và công cụ sử dụng ma túy không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 (Một) điện thoại di động loại “Vivo” màu xanh, bị cáo H sử dụng để liên lạc với người cùng sử dụng chất ma túy nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

- 01 (một) xe mô tô biển số 63B7-X nhãn hiệu Honda, loại SH Mode màu xám - đen, xe do Trần Thị Hương L đứng tên trên giấy chứng nhận đăng ký xe; khi chị L cho bị cáo mượn xe mô tô hai bánh biển số 63B7-X thì không biết bị cáo dùng làm phương tiện để đến nơi hẹn sử dụng chất ma túy nên cần trả lại cho chị Trần Thị Hương L là có cơ sở.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

* Ý kiến trình bày và đề nghị của những người bào chữa cho bị cáo có căn cứ một phần được chấp nhận một phần.

* Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nghiêm Minh H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Nghiêm Minh H 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 08 tháng 9 năm 2023.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

+ Tịch thu tiêu hủy:

- Gói 1: 01 (một) Bì thư được niêm phong ký hiệu vụ số: 165/1 ghi ngày 11 tháng 9 năm 2023, có các chữ ký in họ tên: Nguyễn Thanh Trường (Giám định viên), Nguyễn Quốc Phong (Trợ lý giám định), chữ ký ghi họ tên: Phạm Thanh Trí (Bên nhận) và hình dấu tròn màu đỏ có nội dung: PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ - CÔNG AN TỈNH TIỀN GIANG. Bên trong có 01 (một) gói nylon màu trắng được dán kín (kí hiệu M1.1) chứa 0,7991 gam là ma tuý còn lại sau giám định loại MDMA (mẫu kí hiệu M1.1); 01 (một) gói nylon màu trắng được dán kín (kí hiệu M1.2) chứa 2,2587 gam là ma tuý còn lại sau giám định loại Ketamine (mẫu kí hiệu M1.2); 01 (một) gói nylon màu trắng được dán kín (kí hiệu M1.4) chứa 1,9550 gam là ma tuý còn lại sau giám định loại Ketamine (mẫu kí hiệu M1.4); 02 (hai) vỏ gói nylon màu trắng, có viền màu đỏ một đầu (loại túi zip); 01 (một) vỏ gói nylon màu trắng và 01 (một) vỏ gói nylon màu trắng, có hình mặt cười màu đỏ đều đã bị cắt một đầu để lấy mẫu giám định.

- Gói 2: 01 (một) Bì thư được niêm phong ký hiệu vụ số: 165/2 ghi ngày 11 tháng 9 năm 2023, có các chữ ký in họ tên: Nguyễn Thanh Trường (Giám định viên), Nguyễn Quốc Phong (Trợ lý giám định), chữ ký ghi họ tên: Phạm Thanh Trí (Bên nhận) và hình dấu tròn màu đỏ có nội dung: PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ - CÔNG AN TỈNH TIỀN GIANG. Bên trong có 01 (một) gói nylon màu trắng được dán kín (kí hiệu M2.1) chứa 1,9622 gam là ma tuý còn lại sau giám định loại Ketamine (mẫu kí hiệu M2.1); 01 (một) gói nylon màu trắng được dán kín (kí hiệu M2.2) chứa 0,0580 gam là ma tuý còn lại sau giám định loại Ketamine (mẫu kí hiệu M2.2); 01 (một) vỏ gói nylon màu trắng và 01 (một) vỏ gói nylon màu trắng, có viền màu đỏ một đầu (loại túi zip) đều đã bị cắt một đầu để lấy mẫu giám định.

- 01 (một) cân tiểu ly màu đen (đã qua sử dụng), bị cáo H dùng để chia ma túy ra sử dụng;

+ Tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước:

01 (Một) điện thoại di động loại “Vivo” màu xanh, bị cáo H sử dụng để liên lạc với người cùng sử dụng chất ma túy.

+ Trả lại cho chị Trần Thị Hương L: 01 (một) xe mô tô biển số 63B7- X nhãn hiệu Honda, loại SH Mode màu xám - đen.

Thời gian thực hiện khi bản án có hiệu lực pháp luật.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 23 tháng 01 năm 2024 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Gò Công, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Gò Công với Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Gò Công).

-Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo Nghiêm Minh H phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

-Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

35
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 08/2024/HS-ST

Số hiệu:08/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Gò Công - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về