Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 08/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH LƯU, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 08/2024/HS-ST NGÀY 26/01/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ A xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 176/2023/TLST-HS ngày 25 tháng 12 năm 2023; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08 /2024/QĐXXST- HS ngày 10 tháng 01 năm 2024, đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Văn A (tên gọi khác: Không), sinh ngày 21/9/1998; nơi sinh: Tại huyện DC, tỉnh Nghệ A; nơi cư trú: Khối A, thị trấn DC, huyện DC, tỉnh Nghệ A; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 9/12; quốc tịch: Việt nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông: Nguyễn Văn L, đã chết và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1969; vợ con: Chưa có; Tiền án: Ngày 28/4/2021 bị Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ A xử phạt 15 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo bản án số 97/2021/HS-ST. Chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 27/01/2022; Tiền sự, nhân thân: Không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/10/2023 đến nay. Có mặt.

2. Nguyễn Thị T (tên gọi khác: Không), sinh ngày 10/3/1999; nơi sinh: Tại huyện QL, tỉnh Nghệ A; nơi cư trú: Xóm K, xã QT, huyện QL, tỉnh Nghệ A; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 9/12; quốc tịch: Việt nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nữ; con ông: Nguyễn Bá H, sinh năm 1957 và bà Văn Thị H, sinh năm 1962; Chồng: Chưa có; Con: Có 01 người , sinh năm 2021; Tiền sự: Không; Tiền án: Tại bản án số 139/2022/HSST ngày 19/9/2022 bị Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ A xử phạt 24 tháng tù về tội: “Cố ý gây thương tích” và 24 tháng tù về tội: “Gây rối trật tự công cộng”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo chấp hành chung 48 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” và tội "Gây rối trật tự công cộng”. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/10/2023 đến nay. Có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Ah Nguyễn Trường T, sinh năm 1996, vắng mặt Địa chỉ: Khối A, thị trấn DC, huyện DC, tỉnh Nghệ A.

2. Ah Phạm Đình T, sinh năm 2002, vắng mặt Địa chỉ: Xóm B, xã DT, huyện DC, tỉnh Nghệ A.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 13 giờ ngày 02/10/2023, Nguyễn Thị T sử dụng tài khoản facebook Mesenger mang tên “Nguyễn Thị T’ để liên lạc với Nguyễn Văn A mang tài khoản facebook “Nguyễn Bảo A”, nhờ hỏi mua cho 10 viên ma túy để về sử dụng thì A đồng ý. Sau đó, T bắt xe buýt Đông Bắc và thuê xe lai đi đến khu vực nhà trọ của A thuộc xóm E, xã DT, huyện DC, đưa cho A số tiền 700.000đồng, rồi A lấy xe mô tô dựng ở phòng trọ đi đến nhà Nguyễn Trường T ở khối A, thị trấn DC, mua 10 viên ma túy. A mua xong, bỏ vào vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng rồi đi về nhà trọ đưa gói ma túy này cho T. Nhưng A phát hiện T đưa thiếu 100.000đồng tiền công đi mua ma túy nên đã nhắn tin cho T thì T hứa sẽ chuyển khoản sau. Đến 15 giờ cùng ngày, khi T đi xuống khu vực ngã tư thuộc xóm 13, xã Quỳnh Thạch, huyện Quỳnh Lưu thì bị tổ công tác Công an huyện Quỳnh Lưu phát hiện bắt quả tang, thu giữ 10 viên nén hình tròn màu hồng nghi là ma túy.

Khoảng 17 giờ cùng ngày, do nhu cầu sử dụng ma túy nên A gọi điện cho Phạm Đình T ở xã DT, huyện DC hỏi mua 10 viên ma túy thì T cho A số điện thoại của một người tên H. Sau đó, A mượn điện thoại của Đ ở xã DT, huyện DC để gọi điện thoại cho H hỏi mua ma túy thì H đồng ý, nên A lấy xe mô tô của Đ đến ngã ba thị trấn Diễn Châu, huyện Diễn Châu đi vào cửa hàng điện thoại di động nhờ một người đàn ông không biết tên tuổi, chuyển khoản số tiền 700.000đồng cho H. Sau đó, H hẹn A đến chợ Chùa thuộc xã Diễn Trung, huyện Diễn Châu lấy ma túy. Mua được ma túy, A cất giấu vào trong túi quần đang mặc, điều khiển xe mô tô về trả cho Đ rồi bắt taxi đi về phòng trọ tại xóm 6, xã DT, huyện DC. Ngày 02/10/2023, Công an huyện Quỳnh Lưu và công an xã Diễn Thành đã khám xét khẩn cấp tại chỗ trọ của Nguyễn Văn A và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ trong túi quần bên trái phía trước của A đoạn ống nhựa màu trắng bên trong có chứa 10 viên nén màu hồng nghi là ma túy .

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳnh Lưu đã thành lập Hội đồng mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định 10 viên nén hình tròn màu hồng thu giữ của Nguyễn Văn A có khối lượng là 1,17gam;10 viên nén hình tròn màu hồng thu giữ của Nguyễn Thị T có khối lượng 0,98 gam .

Tại bản kết luận giám định số 976; số 977/KL KTHS(Đ2-MT) ngày 07/10/2023 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ A kết luận: Mẫu viên nén màu hồng thu giữ của Nguyễn Thị T gửi tới giám định là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,98 gam và mẫu viên nén màu hồng thu giữ của Nguyễn Văn A gửi tới giám định là ma túy Methamphetamine có khối lượng 1,17 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn A và Nguyễn Thị T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại bản cáo trạng số 04/CT-VKS-QL ngày 25 tháng 12 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Lưu, truy tố bị cáo Nguyễn Văn A về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Truy tố bị cáo Nguyễn Thị T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn A phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Đề nghị: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 55 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn A từ 27 -30 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, 18 - 21 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 56 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị T từ 18 - 21 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt bổ sung: Không phạt bổ sung các bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu hủy 16 viên ma túy còn lại và phong bì bưu điện, phong bì niêm phong ban đầu, ống hút, vỏ giấy gói.

Tịch thu bán hóa giá sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại Iphone 6 thu giữ của Nguyễn Văn A; 01 điện thoại Iphone 7 thu giữ của Nguyễn Thị T.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn A 01 điện thoại Redmi 9C.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn A và bị cáo Nguyễn Thị T đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng đã truy tố là đúng.

Lời nói sau cùng, bị cáo A và bị cáo T đều xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt, sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Xét hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Quỳnh Lưu, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Lưu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Văn A và Nguyễn Thị T là hoàn toàn khách quan, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến, phù hợp với biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, phù hợp với thời gian, địa điểm phạm tội, phù hợp với vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Vào ngày 02/10/2023, Nguyễn Văn A đã có hành vi mua hộ cho Nguyễn Thị T 10 viên ma túy hồng phiến với số tiền 700.000đ và được hưởng lợi 100.000đ. Đến 15 giờ cùng ngày, tại ngã tư chợ tạm thuộc xóm 13, xã Quỳnh Thạch, huyện Quỳnh Lưu, công an huyện Quỳnh Lưu bắt quả tang Nguyễn Thị T có hành vi tàng trữ 10 viên ma túy hồng phiến có khối lượng 0,98 gam để sử dụng. Cùng ngày, cơ quan công an huyện Quỳnh Lưu và công an xã Diễn Thành bắt quả tang Nguyễn Văn A có hành vi tàng trữ 1,17 gam ma túy mục đích để sử dụng. Nên Nguyễn Văn A phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 và tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; Nguyễn Thị T phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự như Cáo trạng truy tố là đúng quy định pháp luật.

Nguyễn Văn A khai mua ma túy của Nguyễn Trường T, nhưng quá trình điều tra không xác định được việc T có bán ma túy cho A nên không có căn cứ để xử lý hình sự đối với Nguyễn Trường T.

Đối với Phạm Đình T là người đã cho Nguyễn Văn A số điện thoại của người đàn ông tên H để A liên lạc mua ma túy. Quá trình điều tra xác định Phạm Đình T không có mặt tại địa phương. Ngày 08/12/2023 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳnh Lưu đã có Quyết định truy tìm đối với T, hiện nay chưa có kết quả khi nào có kết quả sẽ xử lý sau.

Đối với người đàn ông tên H đã bán ma túy cho A tại khu vực chợ Chùa thuộc xã Diễn Trung, huyện Diễn Châu, do không biết tên, tuổi địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ để xử lý.

Đối với nam thanh niên tên Đ, khi A mượn xe mô tô và điện thoại để liên lạc đi mua ma túy không nói cho Đ mượn xe mô tô và điện thoại vào mục đích gì, ngoài ra không không biết tên, tuổi địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ để xử lý. Đối với người đàn ông ở khu vực ngã ba thị trấn Diễn Châu, huyện Châu mà A nhờ chuyển khoản số tiền 700.000đ để mua ma túy, nhưng A không biết tên, tuổi địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ để xử lý.

Đối với người đàn ông làm nghề xe lai chở T đi xuống xã Diễn Thành, huyện Diễn Châu để mua ma túy nhưng không biết lai lịch cụ thể của người này và T bắt xe buýt Đông Bắc để về xã Quỳnh Thạch, huyện Quỳnh Lưu nhưng không nhớ biển kiểm soát xe buýt nên không có căn cứ để xử lý.

[3] Vụ án thuộc trường hợp nghiêm trọng, hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước; Là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác và làm lây truyền các bệnh nguy hiểm cho con người, bị xã hội lên án. Bởi vậy, căn cứ vào tình tiết, mức độ phạm tội, nhân thân cần thiết phải xử phạt nghiêm khắc bằng hình phạt tù, tương xứng với hành vi phạm tội mà các bị cáo đã thực hiện.

[4] Vụ án đồng phạm nhưng mang tính chất giản đơn, Trong vụ án này vai trò của các bị cáo như sau: A là người bán ma túy nên xếp đầu vụ; T xếp vai trò thứ yếu.

[5] Các bị cáo phạm tội có tình tiết tăng nặng là tái phạm theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Đối với bị cáo Nguyễn Văn A đã bị kết án về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, bị cáo vừa mới chấp hành án xong chưa được xóa án tích nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân mà tiếp tục phạm tội. Đồng thời, bị cáo vừa có hành vi mua bán ma túy để hưởng lợi, vừa có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Điều đó thể hiện bị cáo xem thường pháp luật và cải tạo kém của bị cáo. Tuy nhiên, bị cáo có ông bà nội được tặng thưởng Bằng khen kháng chiến và Huy chương kháng chiến hạng nhất. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, song cần thiết phải cách ly khỏi xã hội một thời gian như Viện kiểm sát đề nghị mới đủ điều kiện giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Đối với bị cáo T, quá trình giải quyết vụ án bị cáo thành khẩn khai báo, bị cáo có bố đẻ được tặng thưởng huân chương chiến công, huân chương kháng chiến, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Tuy nhiên, bị cáo đã bị xử phạt 24 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng” và 24 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, đang trong thời gian hoãn thi hành án, bị cáo lại phạm tội mới, thể hiện tính xem thường pháp luật, nên cần có mức án nghiêm khắc phù hợp với hành vi của bị cáo. Bị cáo đã bị xử phạt 48 tháng tù theo bản án số 139/2022/HS-ST ngày 19/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Lưu. Vì vậy căn cứ Điều 56 BLHS cần tổng hợp hình phạt của bản án trước và hình phạt của bản án này đối với bị cáo Nguyễn Thị T để đảm bảo thi hành án.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy điều kiện hoàn cảnh gia đình các bị cáo khó khăn về kinh tế nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

[7] Vật chứng vụ án: Ma túy là chất Nhà Nước độc quyền quản lý cấm lưu hành, mua bán, tàng trữ nên tịch thu tiêu hủy; bì thư bưu điện, vỏ phong bì niêm phong ban đầu, ống hút nhựa, vỏ giấy gói không có giá trị nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại Iphone 6 thu giữ của Nguyễn Văn A và 01 điện thoại Iphone 7 thu giữ của Nguyễn Thị T là vật dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu bán hóa giá sung công quỹ Nhà nước.

Đối với điện thoại 01 điện thoại Redmi 9C, HĐXX chứng minh bị cáo Nguyễn Văn A không sử dụng vào việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

[8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định pháp luật.

Bởi các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 55 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với Nguyễn Văn A.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với Nguyễn Thị T.

2.Xử phạt:

-Bị cáo Nguyễn Văn A 18 (Mười tám) tháng tù về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy” và 27 (Hai mươi bảy) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo Nguyễn Văn A phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là 45 (bốn mươi lăm) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày tạm giam (02/10/2023).

- Bị cáo Nguyễn Thị T 18 (Mười tám) tháng tù về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tổng hợp hình phạt 48 (bốn mươi tám) tháng tù tại bản án Hình sự sơ thẩm số 139/2022/HS-ST ngày 19/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Lưu, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 05(Năm) năm 06 (Sáu) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày tạm giam (02/10/2023).

3. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 18 viên ma túy còn lại và 01 bì thư bưu điện, vỏ phong bì niêm phong ban đầu, ống hút nhựa, vỏ giấy gói.

Tịch thu bán hóa giá sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại Iphone 6 thu giữ của Nguyễn Văn A; 01 điện thoại Iphone 7 thu giữ của Nguyễn Thị T; trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn A 01 điện thoại Redmi 9C (Số lượng, đặc điểm như trong Biên bản giao nhận đồ vật, tài liệu vật chứng ngày 26/12/2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳnh Lưu và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Lưu).

4. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Văn A và bị cáo Nguyễn Thị T, mỗi người phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ A trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

39
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 08/2024/HS-ST

Số hiệu:08/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Lưu - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về