Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 08/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 08/2023/HS-ST NGÀY 16/03/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 16 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Kiên Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 07/2023/TLST-HS ngày 03 tháng 02 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2023/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 3 năm 2023, đối với bị cáo:

Họ và tên: Hứa Kim A, sinh năm: 2001, tại: huyện K, tỉnh Kiên Giang; nơi cư trú: ấp Bãi Giếng, xã A, thị trấn K, huyện K, tỉnh Kiên Giang; nghề ngH: Không; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Đạo thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hứa Chánh S và bà Trần Thị S; bị cáo đã ly hôn, có 03 con lớn nhất sinh năm 2017, nhỏ nhất sinh năm 2022; tiền sự: Không; có 01 tiền án: bị Tòa án nhân dân huyện K xử phạt 01 năm tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy tại bản án số 22/2022/HS-ST ngày 26/5/2022. Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, bị cáo được hoãn chấp hành án phạt tù theo quyết định số 03/2022/THAHS-QĐ ngày 08/7/2022 của Tòa án nhân dân huyện K. Bị cáo bị bắt tạm giam vào ngày 01/11/2022. Bị cáo có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Phan Tôn Hoàng G, sinh ngày: 09/9/2005. Nơi cư trú: Khu phố Lò Bom, thị trấn K, huyện K, tỉnh Kiên Giang. Vắng mặt.

2/ Bùi ThA B, sinh năm: 1998. Nơi cư trú: khu phố Kiên Tân, thị trấn K, huyện K, tỉnh Kiên Giang. Vắng mặt.

3/ Trần Quỳnh A, sinh năm: 2002. Nơi cư trú: khu phố Cư Xá, thị trấn K, huyện K, tỉnh Kiên Giang. Có mặt.

4/ Nguyễn Ngọc T, sinh năm: 1969. Nơi cư trú: Khu phố Lò Bom, thị trấn K, huyện K, tỉnh Kiên Giang. vắng mặt.

- Người làm chứng:

1/ Lê Hoàng K, sinh năm: 2000. Nơi cư trú: khu phố Hòa Lập, thị trấn K, huyện K, tỉnh Kiên Giang. Vắng mặt.

2/ Phan Thông H, sinh năm: 1973. Nơi cư trú: khu phố Xà Ngách, thị trấn K, huyện K, tỉnh Kiên Giang. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 16 giờ ngày 07/10/2022, Hứa Kim A rủ các bạn mình là Phan Tôn Hoàng G và Trần Huỳnh A đến quán Hai Bưởi tại tổ 2B, khu phố Hòa Lập, thị trấn K, huyện K để tổ chức uống rượu, bia. Tại đây cả 03 gặp Lê Hoàng K là người quản lý quán để đặt phòng nhậu. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, Kim A rủ Quỳnh A và G cùng hùn tiền để mua ma túy về sử dụng, Kim A hùn 800.000 đồng, Huỳnh A và G mỗi người hùn 1.000.000 đồng đưa cho Kim A đi mua ma túy. Kim A điện cho một người tên K (ở khu vực xã Kiên B, không rõ nhân thân) để hỏi xin số điện thoại của người bán ma túy, sau khi được K nhắn tin cho số điện thoại thì Kim A điện hỏi mua ma túy. Một lúc sau có người đàn ông (không rõ nhân thân) đem ma túy đến nên Kim A mua với giá 1.000.000 đồng, Kim A, Quỳnh A và G cùng sử dụng hết số ma túy tại phòng nhậu.

Sau đó Bùi ThA B đến gặp nhóm Kim A để uống rượu, bia và góp 700.000 đồng đưa cho Kim A mua ma túy. Kim A tiếp tục liên hệ với người đàn ông lúc đầu mua ma túy với giá 2.500.000 đồng và cùng các con nghiện sử dụng. Lúc này Quỳnh A có công việc nên bỏ về trước. Cùng lúc đó Võ Ngọc T cũng đến quán Hai Bưởi để đặt phòng nhậu, thấy các con nghiện đang sử dụng ma túy nên T bỏ về.

Đến khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, Công an thị trấn K phối hợp cùng với Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện K tuần tra kiểm sát địa bàn khu phố Hòa Lập thì tại quán Hai Bưởi địa chỉ nêu trên, phát hiện các đối tượng Kim A, G, B đang tàng trữ chất bột màu trắng ghi là ma túy được đựng trên 01 đĩa tròn. Công an đã tiến hành thu gom chất bột màu trắng, nghi là ma túy để vào một bịch nylon được niêm phong trong một phong bì thư gửi giám định.

- Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật:

+ 01 (một) bịch nylong trong suốt được hàn kín, bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng hình dạng không đồng nhất nghi là ma túy, niêm phong gửi giám định.

+ 01 cái đĩa sứ màu trắng, đã qua sử dụng.

+ 01 tờ tiền Việt Nam mệnh giá 100.000 đồng, được cuộn tròn dùng để hút ma túy.

* Theo kết luận giám định số 992/KL-KTHS ngày 17/10/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự công an tỉnh Kiên Giang: chất bột màu trắng, chứa trong 01 (một) bịch nylon, được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Ketamine. Khối lượng mẫu gửi giám định là 0,7800 gam.

Ketamine là chất ma túy nằm trong dA mục III, STT 40, Nghị định 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang.

Tại bản cáo trạng số 05/CT-VKSKL ngày 02/02/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố bị cáo Hứa Kim A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng. Căn cứ vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Hứa Kim A mức án từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Trước đó bị cáo Hứa Kim A đã bị Tòa án nhân dân huyện K, xử phạt về tội tàng trữ trái phép chất ma túy với mức án 01 (một) năm tù tại Bản án hình sự số 22/2022/HS-ST ngày 26/5/2022, bản án đã có hiệu lực pháp luật. Vì vậy đề nghị áp dụng Điều 56 Bộ luật Hình sự tổng hợp hình phạt chung của 02 bản án đối với bị cáo A.

Về xử lý vật chứng, án phí: Đề nghị áp dụng điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu, tiêu hủy 01 phòng bì niêm phong mẫu vật, vụ số: 922/2022 có các hình dấu tròn màu đỏ có nội dung Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang, chữ ký của giám định viên Nguyễn Hoàng Nam và người chứng kiến DA Hoài Phương, 01 cái đĩa sứ màu trắng đã qua sử dụng. Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước tờ tiền Việt Nam có mệnh giá 100.000 đồng. Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự theo quy định.

Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được trA tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện K, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện K, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay là phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, kết luận giám định cũng như các tài liệu, chứng cứ khác thu thập được trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở khẳng định:

Vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 07/10/2022, tại khu vực tổ 2B, khu phố Hòa Lập, thị trấn K, huyện K, Công an phát hiện và bắt quả tang Hứa Kim A có 01 tiền án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, chưa được xóa án tích cùng với Phan Tôn Hoàng G và Bùi ThA B tàng trữ trái pháp chất bột màu trắng là ma túy loại Ketamine, kết quả giám định có khối lượng là 0,7800 gam. Như vậy, hành vi tàng trữ ma túy nhằm mục đích sử dụng của Kim A lần này phải chịu trách nhiệm hình sự với tình tiết định khung “đã kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm” theo điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố bị báo về tội tàng trữ trái phép chất ma túy là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Bị cáo Hứa Kim A đã bị Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Kiên Giang kết án 01 (một) năm tù về tàng trữ trái phép chất ma túy theo Bản án hình sự sơ thẩm số: 22/2022/HS-ST ngày 26/5/2022, Bản án đã có hiệu lực pháp luật. Vì vậy cần áp dụng Điều 56 Bộ luật Hình sự tổng hợp hình phạt của cả 02 bản án đối với bị cáo A.

[4] Xét tính chất của hành vi vi phạm: Xét hành vi của bị cáo là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, bị cáo là người đã thành niên có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ nhận thức để biết rằng hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, bất kỳ ai thực hiện đều bị xử lý nghiêm, bị cáo đã bị xử phạt 01 năm tù về tội này nhưng trong quá trình được hoãn thi hành án bị cáo lại bất chấp pháp luật, cố tình vi phạm dù biết rất rõ hậu quả, tác hại của ma túy đối với bản thân và cộng đồng, đây là hành vi xem thường pháp luật, cố ý phạm tội, không biết sửa chữa nên cần phải có một mức án nghiêm khắc, cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tính giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[5] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo: Bị cáo có nhân thân xấu, có 01 tiền án chưa được xóa án tích, tuy nhiên trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận và tỏ ra biết ăn năn hối cải. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự khi lượng hình, giảm nhẹ phần nào hình phạt cho bị cáo, thể hiện tính khoan hồng của pháp luật. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[6] Về xử lý vật chứng: Ma túy là chất cấm lưu hành và 01 cái đĩa dùng để đựng ma túy là phương tiện phạm tội không có giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy. Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 tờ tiền Việt Nam mệnh giá 100.000 đồng do bị cáo dùng để hút ma túy.

[7] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Trần Quỳnh A và hành vi tàng trữ trái pháp chất ma túy của Phan Tôn Hoàng G và Bùi ThA B do không đủ căn cứ để khởi tố vụ án hình sự nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện K đã ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính mỗi đối tượng với số tiền 5.000.000 đồng là phù hợp với quy định của pháp luật.

Đối với người thA niên tên K và người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo, cơ quan công an đã xác minh nhưng không xác định được đối tượng nên không có cơ sở xử lý. Đối với Nguyễn Ngọc T qua kiểm tra thì phát hiện T dương tính với chất ma túy, T thừa nhận trước khi đến quán Hai Bưởi, T đã sử dụng ma túy nên cơ quan công an ban hành quyết xử phạt vi phạm hành c hính T với số tiền 1.500.000 đồng là phù hợp.

[8] Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát là có cơ sở, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Hứa Kim A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Hứa Kim A 01 (một) năm tù. Áp dụng Điều 56 của Bộ luật Hình sự, tổng hợp hình phạt 01 (một) năm tù của Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2022/HS-ST, ngày 26/5/2022 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Kiên Giang.

Buộc bị cáo Hứa Kim A phải chấp hành hình phạt chung của 02 Bản án là 02 (hai) năm tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 01/11/2022.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) phong bì có ký hiệu vụ số 992/2022, ngày 19/10/2022 có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Hoàng Nam và người chứng kiến DA Hoài Phương và hình dấu tròn của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Kiên Giang; 01 cái đĩa bằng sứ màu trắng, đã qua sử dụng. Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: 01 tờ tiền Việt Nam, mệnh giá 100.000 đồng, được cuộn tròn (dùng để hút ma túy). Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 02/02/2023.

- Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Hứa Kim A phải chịu án phí là 200.000 đồng.

- Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo ban an trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thâm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thâm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

69
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 08/2023/HS-ST

Số hiệu:08/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiên Lương - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về