Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 07/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG NĂNG, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 07/2024/HS-ST NGÀY 10/01/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Krông Năng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 74/2023/HSST ngày 26 tháng 12 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: SÙNG THỊ T, sinh năm 1981 tại tỉnh Yên Bái; nơi ĐKNKTT và chỗ ở trước khi phạm tội: Thôn G, xã Đ, huyện N, tỉnh Đắk Lắk; giới tính: Nữ; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 01/12; dân tộc: Mông; giới tính: Nữ; tôn giáo: Tin Lành; quốc tịch: Việt Nam; con ông Sùng A P và Cứ Thị L (đều đã chết). Bị cáo có chồng là Pàng A T, sinh năm 1980; có 09 (con lớn sinh năm 1996, con nhỏ sinh năm 2019), hiện chồng đang cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở điều trị cai nghiện ma túy tỉnh Đắk Lắk. Các con đang sinh sống tại thôn G, xã Đ, huyện N, tỉnh Đắk Lắk.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 08/10/2023, sau đó chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Krông Năng, có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Sùng Thị T: Ông Nguyễn Hữu H - Trợ viên pháp lý thuộc trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Đắk Lắk; địa chỉ: 39 đường K, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (có mặt).

- Người phiên dịch tiếng Mông cho bị cáo: Ông Sùng A C; địa chỉ: Thôn G, xã Đ, huyện N, tỉnh Đắk Lắk (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Sùng Thị T sinh năm 1981 trú tại thôn G, xã Đ, huyện N là đối tượng nghiện ma túy. Khoảng 6 giờ ngày 08/10/2023, T đi bộ từ nhà ra đường lớn ở thôn G, xã Đ, huyện N để tìm mua ma túy để sử dụng. Khi đi được một đoạn thì T gặp một 1 người đàn ông không rõ nhân thân lai lịch, khoảng 40 tuổi đang hút ma túy bên lề đường nên T đi lại hỏi có ma túy bán không người đàn ông trả lời có, T đưa số tiền 100.000 đồng thì người đàn ông lấy và đưa cho 01 gói nylon màu vàng bên trong có chứa chất rắng màu trắng, T cầm ma túy bằng tay trái và sau đó đi bộ về nhà. Khi đi đến sân trước nhà T ở thôn G, xã Đ, huyện N thì bị lực lượng Công an kiểm tra phát hiện bắt quả tang Sùng Thị T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ tại tay trái của T 01 gói nylon màu vàng bên trong có chứa chấn rắn màu trắng.

Tại bản kết luận giám định số 1245 ngày 13/10/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Chất rắn màu trắng bên trong 01 gói nylon màu vàng được niêm phong là Ma túy, có tổng khối lượng 0,1294gam, loại Heroine.

Tại bản cáo trạng số: 05/CT-VKS ngày 22 tháng 12 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk truy tố bị cáo Sùng Thị T, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố đối với bị cáo.

Tại phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát đã đưa ra các chứng cứ buộc tội, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả đối với hành vi phạm tội của bị cáo, đồng thời giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, như bản cáo trạng số: 05/CT-VKS ngày 22 tháng 12 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk. Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Sùng Thị T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Sùng Thị T từ 15 tháng đến 18 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, ngày 08/10/2023.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 46; khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy khối lượng ma túy hoàn lại sau giám định là 0,1170gam loại Heroine và 02 mẩu giấy bạc màu trắng, 01 mẩu kích thước 5,5cmx3cm bị đốt cháy đen ở giữa; 01 mẩu giấy bạc kích thước 6cmx3,3cm.

Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo Sùng Thị T. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Năng đã tiến hành xác minh nhưng chưa xác định được nhân thân lai lịch của đối tượng trên. Do đó, Cơ quan cảnh sát điều tra tiếp tục điều tra xác minh khi nào có căn cứ sẽ xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo có ý kiến như sau: Thống nhất quan điểm của Viện kiểm sát truy tố và Tòa án đưa vụ án ra xét xử đối với bị cáo Sùng Thị T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là quá nghiêm khắc, bởi lẽ: Bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự. Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở khu vực có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, trình độ học vấn thấp nên nhận thức về pháp luật còn hạn chết, 2 gia đình bị cáo rất khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình, hiện tại một mình bị cáo phải nuôi dạy 09 người con. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng mức hình phạt thấp nhất cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình, xã hội.

Bị cáo Sùng Thị T không có ý kiến tranh luận gì, chỉ đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Các quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện Krông Năng tỉnh Đắk Lắk, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo, người làm chứng không có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung: Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với bản kết luận giám định, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ căn cứ pháp lý kết luận: Khoảng 6 giờ 00 phút ngày 08/10/2023, thôn G, xã Đ, huyện N, tỉnh Đắk Lắk, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Năng bắt quả tang Sùng Thị T đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,1294 gam, loại Heroine để sử dụng.

Do đó, hành vi nêu trên của bị cáo Sùng Thị T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại Điều luật nêu trên quy định:

Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.

…” Xét tính chất vụ án do bị cáo gây ra là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo không những đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma tuý, mà còn gây ảnh hưởng xấu về nhiều mặt cho xã hội, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an ở địa phương huyện Krông Năng nói riêng và toàn xã hội nói chung.

Bị cáo hoàn toàn có đủ năng lực để nhận thức được rằng: Chất ma tuý là loại độc dược gây nghiện, thuộc sự quản lý độc quyền của Nhà nước, việc sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán và sử dụng đều phải được sự cho phép của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Nhưng do ý thức coi thường pháp luật nên bị cáo đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0,1294 gam loại Heroin. Vì vậy, cần phải áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời 3 gian, thì mới có đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa tội phạm chung trong toàn xã hội.

[3]. Về nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự:

[3.1]. Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự.

[3.2]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo là người đồng bào dân tộc thiểu số sống ở khu vực có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn nên nhận thức về pháp luật còn hạn chế, hoàn cảnh gia đình khó khăn. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, mà Hội đồng xét xử cần cân nhắc, xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự đối với bị cáo khi quyết định hình phạt.

[3.3]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

[4]. Xét mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử phạt đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc.

[5]. Đối với hành vi của người đàn ông mà bị cáo Sùng Thị T khai bán ma túy cho bị cáo hiện nay chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Năng đã tách ra khi nào xác minh được sẽ xử lý sau là phù hợp.

[6]. Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 46; khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy khối lượng ma túy hoàn lại sau giám định 0,1170 gam loại Heroine và 02 mẩu giấy bạc màu trắng, 01 mẩu kích thước 5,5cmx3cm bị đốt cháy đen ở giữa; 01 mẩu giấy bạc kích thước 6cmx3,3cm (Có đặc điểm như trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 25/12/2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Năng với Chi cục Thi hành án dân sự huyện N).

[7]. Về án phí: Bị cáo Sùng Thị T là người đồng bào dân tộc thiểu số sống ở khu vực có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn và đã có đơn xin miễn giảm án phí nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Sùng Thị T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Sùng Thị T: 01 (một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, ngày 08/10/2023.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 46; khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 

Tịch thu, tiêu hủy khối lượng ma túy hoàn lại sau giám định là 0,1170 gam loại Heroine và 02 mẩu giấy bạc màu trắng, 01 mẩu kích thước 5,5cmx3cm bị đốt cháy đen ở giữa; 01 mẩu giấy bạc kích thước 6cmx3,3cm (Có đặc điểm như trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 25/12/2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Năng với Chi cục Thi hành án dân sự huyện N).

3. Về án phí: Bị cáo Sùng Thị T được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

21
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 07/2024/HS-ST

Số hiệu:07/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Năng - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về