Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 07/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 07/2024/HS-ST NGÀY 12/01/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 267/2023/HSST ngày 14 tháng 12 năm 2023 đối với bị cáo:

LÊ THỊ TUYẾT M, sinh năm: 1994, tại tỉnh Bình Thuận;

Nơi Đăng ký HKTT: khu phố 12, phường M, thành phố P, tỉnh Bình Thuận; Nơi cư trú : thôn T, xã T, thành phố P, tỉnh Bình Thuận; nghề nghiệp: nội trợ;

trình độ văn hóa: 02/12; dân tộc: kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn T và bà Ngô Thị P. Có 01 con.

Tiền sự : không; Tiền án: không Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: “Cấm đi khỏi nơi cư trú”.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 20 giờ, ngày 28/12/2021, do có nhu cầu sử dụng ma túy, bị cáo Lê Thị Tuyết M sử dụng điện thoại hiệu Nokia gắn sim số 094673xxxx liên lạc với B (không rõ nhân thân, M không nhớ số đện thoại) ở khu phố 15, phường M hỏi mua 600.000 đồng ma túy đá thì B đồng ý bán và hẹn M đến khu vực hẻm đối diện quán cà phê T thuộc khu phố 15, phường M để giao. M đến địa điểm đã hẹn thì gặp 1 một nam thanh niên (không rõ nhân thân). Người này đưa M 01 (một) gói nylon không màu, hàn kín, kích thước khoảng (02x04) cm, bên trong có chứa ma túy đá, M đưa người này 600.000 đồng. M đem gói ma túy vừa mua được về nhà mình ở khu phố 12, phường M, cất gói ma túy vào túi áo khoác jeans màu xanh, treo trong tủ quần áo của mình để sử dụng dần. Sau khi mua được ma túy, M xóa thông tin liên lạc của B rồi mang chiếc điện thoại di động hiệu Nokia gắn sim số 094673xxxx trên bán cho một người không rõ nhân thân lấy tiền tiêu xài. Đến khoảng 10 giờ 30 phút ngày 29/12/2021, Công an phường Mũi Né Công an thành phố Phan Thiết tiến hành kiểm tra, phát hiện M có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy trong túi bên phải áo khoác màu xanh của M để trong tủ quần áo tại phòng ngủ của M nên đã tiến hành tiến hành thu giữ toàn bộ tang vật và đưa về trụ sở Công an làm việc. Tại Cơ quan công an, M khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như trên.

Vật chứng của vụ án:

- 01 (một) gói nylon không màu, hàn kín, kích thước khoảng (02x04) cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng (ký hiệu là M khi giám định), được thu giữ trong túi bên phải của áo khoác xám, xanh để trong tủ quần áo tại phòng ngủ của M. M khai nhận đây là ma túy đá được M mua về nhằm mục đích sử dụng;

- 01 (một) áo khoác màu xám, xanh để trong tủ quần áo tại phòng ngủ (bên trong có chứa gói ma túy như trên);

- 01 (một) điện thoại di động màn hình cảm ứng hiệu VIVO, màu xanh ngọc của Lê Thị Tuyết M, điện thoại không gắn sim.

Tại phiên tòa bị cáo Lê Thị Tuyết M đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại Bản kết luận giám định số: 189/KLGĐ-PC09 ngày 01/3/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận kết luận: mẫu M gửi giám định có khối lượng 0,4776 gam là Methamphetamine Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận nêu trên.

Bản cáo trạng số 243/CT – VKSPT- HS ngày 27 tháng 11 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận đã truy tố bị cáo Lê Thị Tuyết M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự;

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Lê Thị Tuyết M đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết giữ quyền công tố luận tội và tranh luận:

Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Lê Thị Tuyết M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm n; s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lê Thị Tuyết M với mức hình phạt từ 12 tháng tù đến 18 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự tuyên:

Tịch thu tiêu huỷ 0,2350 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 189, có chữ ký của giám định viên Đinh Trung H và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận và 01 áo khoác màu xám, xanh của bị cáo My.

Lời nói sau cùng của bị cáo Lê Thị Tuyết M: Bị cáo biết hành vi tàng trữ ma túy là vi phạm pháp luật mong Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt, bị cáo hứa sẽ học tập rèn luyện để trở thành người có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Thiết, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ buộc tội bị cáo: Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội. Xét lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra Công an thành phố Phan Thiết và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để kết luận:

Vào lúc 10 giờ 30 ngày 29/12/2021, tại khu phố 12, phường M, thành phố P, bị cáo Lê Thị Tuyết M đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,4776 gam chất ma túy là Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng thì bị Công an phường Mũi Né phát hiện bắt giữ.

Xét thấy bị cáo Lê Thị Tuyết M là người có năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức đầy đủ về hành vi của mình đối với xã hội. Bị cáo nhận thức được những tác hại nguy hiểm của ma túy đối với sức khỏe con người, đối với cộng đồng xã hội và việc tàng trữ chất ma túy là trái pháp luật. Nhà nước nghiêm cấm và xử lý nghiêm khắc đối với mọi hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng bị cáo đã xem thường pháp luật, đã tàng trữ ma túy bất chấp hậu quả. Do đó đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Lê Thị Tuyết M đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật 3 Hình sự như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết đã truy tố các bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo cho thấy: Hành vi của bị cáo không những xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của nhà nước về chất ma túy mà còn gây mất an ninh trật tự tại địa phương, thể hiện tính nguy hiểm cao cho xã hội. Vì vậy cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm, tương xứng với tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội và cũng là để giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.

Tuy nhiên khi quyết định hình phạt, xét thấy tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo; bị cáo đang có thai 7 tháng, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm n, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4] Về xử lý vật chứng:

Đối với 0,2350 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 189, có chữ ký của giám định viên Đinh Trung H và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận, là vật thuộc loại nhà nước cấm lưu hành. Do vậy cần áp dụng quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự quyết định tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 áo khoác màu xám, xanh của bị cáo My, bị cáo không có yêu cầu nhận lại, là vật không có giá trị sử dụng. Do vậy áp dụng quy định tại điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự quyết định tịch thu tiêu huỷ.

Đối với chiếc điện thoại di động màn hình cảm ứng hiệu VIVO, màu xanh ngọc, bên trong không gắn sim, quá trình điều tra xác định đây là tài sản cá nhân của bị cáo My không liên quan đến hành vi phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Thiết đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại cho bị cáo là đúng pháp luật, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Đối với nguồn gốc ma túy tàng trữ, bị cáo khai mua của một đối tượng tên Bi. Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Thiết chưa xác định được nhân thân không có căn cứ để xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét.

luật.

[6] Về án phí : Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm n, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Lê Thị Tuyết M phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt:

Bị cáo Lê Thị Tuyết M 01 (Một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày chấp hành án.

Về xử lý vật chứng:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên:

Tịch thu tiêu hủy 0,2350 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 189, có chữ ký của giám định viên Đinh Trung H và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận và 01 áo khoác màu xám, xanh.

Vật chứng ghi trên hiện do Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phan Thiết quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 57 ngày 08/12/2023.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án và danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết, tuyên buộc bị cáo Lê Thị Tuyết M phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 12/01/2024).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

71
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 07/2024/HS-ST

Số hiệu:07/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về