TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN
BẢN ÁN 07/2022/HS-ST NGÀY 15/02/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 15 tháng 02 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân tỉnh Thái Nguyên xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm, thụ lý số 69/2021/TLST-HS ngày 16 tháng 11 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2022/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 01 năm 2022 đối với các bị cáo:
1. Dương Ngọc Th; Tên gọi khác: Không; sinh ngày 26 tháng 8 năm 2000, tại Thái Nguyên; Nơi ĐKHKTT: Xóm Ch 1, xã NL, huyện PB, tỉnh Thái Nguyên; chỗ ở: Xóm Tr 2, xã ĐT, huyện PB, tỉnh Thái Nguyên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Tự do; Con ông: Dương Ngọc O (đã chết); Con bà: Dương Thị L; vợ, con: Chưa có; Tiền án, Tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/6/2021, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Thái Nguyên, (có mặt).
2. Nguyễn Văn T; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 28 tháng 12 năm1996 tại Thái Nguyên; Nơi ĐKHKTT: Xóm N, xã Nl, huyện PB, tỉnh Thái Nguyên; chỗ ở: Xóm Tr 2, xã ĐT, huyện PB, tỉnh Thái Nguyên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Công giáo; Trình độ học vấn: 09/12; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Con ông: Nguyễn Văn T1; Con bà: Nguyễn Thị K; vợ, con: Chưa có.
- Tiền án: Tại bản án số 137/2019/HSST ngày 07/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 24 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo Điều 134 BLHS. Ra trại ngày 12/02/2021.
- Nhân thân:
+ Tại bản án số 50/2015/HSST ngày 28/5/2015 của TAND huyện Phú Bình xử 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội “Đánh bạc” theo Điều 248 BLHS.
+ Tại bản án số 116/2015/HSST ngày 24/11/2015 bị TAND huyện Phú Bình xử phạt 06 tháng tù giam về tội “Đánh bạc” theo Điều 248, buộc chấp hành hình phạt chung 12 tháng tù, chấp hành xong ngày 22/6/2016.
+ Ngày 17/7/2013 bị Công an huyện Phú Bình xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức cảnh cáo về hành vi xâm hại sức khỏe người khác.
+ Ngày 09/11/2017 bị Công an huyện Phú Bình xử phạt vi phạm hành chính 3.200.000đ về hành vi không giao nộp vũ khí vật liệu nổ công cụ hỗ trợ và không thực hiện đúng quy định về thông báo lưu trú.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/6/2021, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Thái Nguyên. (có mặt)
Người bào chữa cho bị cáo Dương Ngọc Th: Luật sư Hoàng Thanh Q1, Văn phòng luật sư Quyết Thắng – Đoàn Luật sư tỉnh Thái Nguyên. (có mặt)
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Dương Văn C, sinh năm 1992. (vắng mặt) Nơi cư trú: Xóm B, xã NL, huyện PB, tỉnh Thái Nguyên.
2. Anh Nguyễn Đình T2, sinh năm 1996. (vắng mặt) Nơi cư trú: Xóm X, xã NL, huyện PB, tỉnh Thái Nguyên.
Người Làm chứng:
Chị Lù Thị U, sinh năm 2002. (vắng mặt) Nơi cư trú: Bản CC, xã MP, huyện ĐB, tỉnh Điện Biên.
Người chứng kiến:
1. Anh Dương Văn Đ, sinh năm 1979, (vắng mặt) Nơi cư trú: Xóm Tr 2, xã ĐT, huyện PB, tỉnh Thái Nguyên.
2. Anh Vũ Văn Q, sinh năm 1970, (vắng mặt).
Nơi cư trú: Xóm B1, xã ĐT, huyện PB, tỉnh Thái Nguyên.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 12 giờ 40 phút ngày 23/6/2021, tại Xóm B1, xã NL, huyện PB, tỉnh Thái Nguyên, Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên phát hiện bắt quả tang Dương Văn C, sinh năm 1992, trú tại Xóm B, xã NL, huyện PB, tỉnh Thái Nguyên đang có hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. C khai nhận hiện đang ở cùng Nguyễn Văn T (sinh năm 1996, trú tại: Xóm N, xã Nl, huyện PB, tỉnh Thái Nguyên) và Dương Ngọc Th (sinh năm 2000, trú tại: Xóm Ch 1, xã NL, huyện PB, tỉnh Thái Nguyên) tại nhà trọ của Nguyễn Văn T thuê ở tại xóm Tr 2, xã ĐT, huyện PB, tỉnh Thái Nguyên.
Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Phú Bình đã ra Lệnh khám xét khẩn cấp đối với Dương Văn C tại nhà trọ nêu trên ở xóm Tr 2, xã ĐT, huyện PB, tỉnh Thái Nguyên, khi khám xét có mặt Nguyễn Văn T. Kết quả thu giữ những vật chứng sau: Tại ngăn tủ trong phòng ngủ tầng 1 thu giữ 01 túi nilon màu trắng chứa chất tinh thể màu trắng có khối lượng là: 2,818 gam (Niêm phong A - theo Nguyễn Văn T khai nhận là ma túy tổng hợp Ketamine), 01 cân điện tử màu đen. Trên mặt tủ lạnh trong gian bếp thu giữ 01 hộp gỗ màu nâu, bên trong chứa:
02 túi nilon màu trắng bên trong có tổng số 402 viên nén màu hồng và 04 viên nén màu xanh, có tổng khối lượng là: 40,279 gam nghi là ma túy tổng hợp hồng phiến (Methamphetamine); 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa chất tinh thể màu trắng có khối lượng là: 49,603 gam nghi là ma túy tổng hợp dạng đá (Methamphetamine – Niêm phong B). Tại sau máy giặt trong gian bếp thu giữ một túi nilon màu trắng chứa tinh thể màu trắng có khối lượng là: 40,190 gam nghi là ma túy tổng hợp dạng đá (Niêm phong C). Tại ngăn kéo bàn đặt tại phòng khách thu giữ 03 viên đạn, đáy có in số 65 (nghi sử dụng cho súng ngắn K54-Niêm phong D); Tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam 9.780.000đ; một cuốn sổ màu đen. Tại bàn uống nước đặt tại phòng khách thu giữ: 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone XS max; 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia 105 màu đen; 01 điện thoại di động nhãn hiệu BAVATEL màu đen; 01 điện thoại nhãn hiệu SAMSUNG màu bạc (Niêm phong E).
Hồi 16 giờ 20 phút ngày 23/6/2021, tại Phòng nghỉ số 107 nhà nghỉ Phương Loan, thuộc xóm Tr, xã ĐT, huyện PB, tỉnh Thái Nguyên, Tổ công tác của Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên phát hiện bắt quả tang Dương Ngọc Th tàng trữ trái phép chất ma túy, tang vật thu giữ gồm 02 túi nilon màu xanh bên trong chứa tổng số 262 viên nén (258 viên màu hồng, 04 viên nén màu xanh – Niêm phong A) có tổng khối lượng là:
25,813g, Th khai là ma túy tổng hợp hồng phiến (Methamphetamine). 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu trắng, gắn sim sử dụng số thuê bao 0975828611; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu vàng, không gắn thẻ sim; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu hồng, không gắn thẻ sim và số tiền 1.995.000đ; Hồi 03 giờ ngày 24/6/2021, Dương Ngọc Th được đưa vào nhà tạm giữ Công an huyện Phú Bình, khi kiểm tra người còn phát hiện trong túi quần bên phải phía trước Th đang mặc 02 túi nilon màu trắng, một túi chứa 02 viên nén màu hồng có khối lượng là: 0,196 gam Th khai nhận là ma túy hồng phiến (Methamphetamine), một túi chứa 01 viên nén hình tam giác màu xanh có khối lượng là: 0,482 gam Th khai là ma túy thuốc lắc (MDMA).
Cơ quan điều tra đã tiến hành thủ tục lấy mẫu vật, trưng cầu giám định, kết quả giám định như sau:
- Bản kết luận giám định số 1071/KL-KTHS ngày 02/7/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận (Số ma túy thu giữ khi khám xét nơi ở của Nguyễn Văn T ngày 23/6/2021):
+ Mẫu chất tinh thể dạng đá trong bì ký hiệu A1 gửi giám định là chất ma túy, loại Ketamine; có khối lượng thu giữ ban đầu là 2,818 gam;
+ Mẫu các viên nén màu đỏ hồng trong phong bì ký hiệu B1 gửi giám định là chất ma túy; loại: Methamphetamine; có khối lượng thu giữ ban đầu là 19,870 gam;
+ Mẫu viên nén màu xanh trong phong bì ký hiệu B2 gửi giám định là chất ma túy; loại: Methamphetamine; có khối lượng thu giữ ban đầu là 0,205 gam;
+ Mẫu viên nén màu đỏ hồng trong phong bì ký hiệu B3 gửi giám định là chất ma túy; loại: Methamphetamine; có khối lượng thu giữ ban đầu là 20,025 gam;
+ Mẫu viên nén màu xanh trong phong bì ký hiệu B4 gửi giám định là chất ma túy; loại: Methamphetamine; có khối lượng thu giữ ban đầu là 0,179 gam;
+ Mẫu chất tinh thể dạng đá trong phong bì ký hiệu B5 gửi giám định là chất ma túy; loại: Methamphetamine; có khối lượng thu giữ ban đầu là 49,603 gam;
+ Mẫu chất tinh thể dạng đá trong phong bì ký hiệu C1 gửi giám định là chất ma túy; loại: Methamphetamine; có khối lượng thu giữ ban đầu là 40,190 gam.
- Bản kết luận giám định số 1061/KL-KTHS ngày 02/7/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận (Số ma túy thu giữ của Dương Ngọc Th ngày 23/6/2021):
+ Mẫu các viên nén màu hồng đỏ trong bì thư ký hiệu A1 gửi giám định là chất ma túy; loại Methamphetamine; khối lượng là: 5,228 gam.
+ Mẫu các viên nén màu xanh trong bì thư ký hiệu A2 gửi giám định là chất ma túy; loại Methamphetamine; khối lượng là: 0,180 gam.
+ Mẫu các viên nén màu hồng đỏ trong bì thư ký hiệu A3 gửi giám định là chất ma túy; loại Methamphetamine; khối lượng là: 19,708 gam.
+ Mẫu các viên nén màu hồng đỏ trong bì thư ký hiệu A4 gửi giám định là chất ma túy; loại Methamphetamine; khối lượng là: 0,697 gam.
- Bản kết luận giám định số 1067/KL-KTHS ngày 02/7/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận (Số ma túy thu giữ trên người Dương Ngọc Th ngày 24/6/2021):
+ Viên nén màu hồng đỏ trong phong bì ký hiệu T1 gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là 0,196 gam.
+ Viên nén màu xanh có dạng hình tam giác trong phong bì ký hiệu T2 gửi giám định là chất ma túy, loại MDMA, có khối lượng là: 0,482 gam.
- Bản kết luận giám định số 1109/KL-KTHS ngày 08/7/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Dấu vết đường vân tay trên mảnh nilon màu trắng (túi nilon chứa ma túy thu giữ tại nhà Nguyễn Văn T) với ngón giữa trái in trên chỉ bản đứng tên Dương Ngọc Th là cùng một người để lại.
- Bản kết luận giám định số 5786/C09-P3 ngày 09/8/2021 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: 03 viên đạn gửi giám định là đạn cỡ 7,62x25mm. Loại đạn 7,62x25mm thuộc vũ khí quân dụng trong đó có 02 viên còn sử dụng bắn được; 01 viên không có hạt nổ, không sử dụng bắn được.
Quá trình điều tra xác định hành vi phạm tội của Dương Ngọc Th và Nguyễn Văn T như sau: Vào khoảng 18 giờ ngày 22/6/2021, Dương Ngọc Th đến nhà nghỉ Phương Loan gần với nhà ở thuê trọ của Nguyễn Văn T cùng thuộc xóm Tr 2, xã ĐT, huyện PB, tỉnh Thái Nguyên gặp người nam giới tên là T3 (không rõ họ tên đệm, địa chỉ) mua một túi ni lon màu đen bên trong chứa ma túy đem về nhà trọ của Nguyễn Văn T và lấy ra từng loại ma túy cất giấu tại nhiều nơi trong nhà cụ thể: 406 viên nén màu hồng, màu xanh là ma túy hồng phiến (Methamphetamine) và một túi nilon màu trắng bên chứa ma túy tổng hợp dạng đá (Methamphetamine) để trong một hộp gỗ màu nâu đặt trên mặt tủ lạnh trong gian bếp. Một túi nilon màu trắng chứa ma túy tổng hợp dạng đá (Methamphetamine) để tại sau máy giặt trong gian bếp. Số ma túy còn lại gồm 02 túi nilon màu xanh bên trong chứa 264 viên nén màu hồng, màu xanh là ma túy tổng hợp hồng phiến (Methamphetamine), 01 viên ma túy tổng hợp thuốc lắc (MDMA) và gói ma túy tổng hợp Ketamine Th cất giấu trong túi xách màu đen đem theo người và trong túi quần Th đang mặc. Đến 22 giờ ngày 22/6/2021, Th đưa cho T2 một gói ma túy tổng hợp Ketamine nêu trên để T2 sử dụng. Sau đó Th đến nhà nghỉ Phương Loan thuê phòng nghỉ cùng chị Lù Thị U, đến 16h20 ngày 23/6/2021 thì Th bị bắt giữ. Ngoài ra Th khai toàn bộ số ma túy cơ quan Công an thu giữ khi Th bị bắt quả tang và số ma túy tại nhà Nguyễn Văn T là do Th mua với mục đích để sử dụng cho bản thân.
Còn Nguyễn Văn T thừa nhận được Dương Ngọc Th đã đưa cho T2 gói ma túy tổng hợp Ketamine có khối lượng 2,818 gam để T2 sử dụng cho bản thân, nhưng T2 chưa sử dụng mà cất giấu ở ngăn tủ trong đặt phòng ngủ, số ma túy còn lại bị phát hiện thu giữ khi khám xét nhà thuê trọ của T2 ngày 23/6/2021 không phải của T2. Đối với 03 viên đạn bị thu giữ là do T2 nhặt được tại trước cửa nhà thuê trọ vào ngày 20/5/2021, sau đó đem vào nhà cất giấu tại ngăn bàn đặt trong phòng khách thì bị lực lượng Cơ quan điều tra phát hiện thu giữ.
Tại bản cáo trạng số 87/CT – VKSTN-P1, ngày 11/11/2021 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Dương Ngọc Th về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm h khoản 4 Điều 249 Bộ luật hình sự; Truy tố Nguyễn Văn T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm g khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Phần luận tội tại phiên tòa hôm nay, sau khi phân tích, đánh giá tính chất vụ án, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Các bị cáo Dương Ngọc Th và Nguyễn Văn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Căn cứ điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Dương Ngọc Th từ 17 đến 18 năm tù. Phạt bổ sung bị cáo từ 10 đến 15 triệu đồng để sung quỹ Nhà nước.
Căn cứ điểm g khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 3 đến 4 năm tù. Phạt bổ sung bị cáo từ 5 đến 10 triệu đồng để sung quỹ Nhà nước.
Vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy thu giữ của các bị cáo đã được niêm phong theo quy định; 01 cân điện tử màu đen; 01 hộp gỗ màu nâu; 01 điện thoại Nokia đã cũ; 01 cuốn sổ ghi chép của Nguyễn Văn T; 01 túi đeo chéo màu đen và các vỏ bao gói.
- Trả lại cho anh Nguyễn Đình T2 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Bavatel màu đen.
- Trả lại cho anh Dương Văn C 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu bạc, kèm theo sim.
Tạm giữ số tiền: 9.780.000 đồng; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu iphone XS Max để đảm bảo thi hành án cho Nguyễn Văn T.
Tạm giữ số tiền: 1.995.000 đồng và 03 chiếc điện thoại di động (trong đó có 01 chiếc nhãn hiệu Iphone màu trắng, kèm theo sim; 01 chiếc nhãn hiệu Iphone màu vàng và 01 chiếc nhãn hiệu Iphone màu hồng) để đảm bảo thi hành án cho Dương Ngọc Th.
Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, buộc các bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.
Trong phần tranh luận, các bị cáo không tranh luận với luận tội của Viện kiểm sát.
Luật sư bào chữa cho bị cáo Dương Ngọc Th: Xác định việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên đối với bị cáo Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm h khoản 4 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật, Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử xem xét quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo tuổi đời còn trẻ, phạm tội do ham chơi, đua đòi, đề nghị căn cứ vào nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo được hưởng, cho bị cáo được hưởng mức án từ 16 đến 17 năm tù để bị cáo có cơ hội được trở về với gia đình.
Bị cáo Th nhất trí với nội dung bào chữa của Luật sư.
Lời nói sau cùng, các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tố tụng: Quá trình khởi tố vụ án, điều tra, truy tố và xét xử, điều tra viên, kiểm sát viên và người bào chữa đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo, Luật sư và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện trong vụ án đảm bảo hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.
[2]. Về nội dung: Căn cứ lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận:
Dương Ngọc Th và Nguyễn Văn T là các đối tượng nghiện ma túy và thường xuyên phải sử dụng ma túy để thỏa mãn nhu cầu của mình. Ngày 22/6/2021, Dương Ngọc Th thông qua mối quan hệ xã hội của cá nhân đã mua ma túy của một người nam giới tên T3 (không rõ lai lịch, địa chỉ cụ thể) được 159,381 gam ma túy (trong đó có 156,081 gam Methamphetamine, 0,482 gam MDMA và 2,818 gam Ketamine). Sau khi mua được số ma túy nêu trên, Dương Ngọc Th đã mang về cất giấu một phần số ma túy trong chiếc hộp gỗ màu nâu đặt bên trên chiếc tủ lạnh và cất giấu ở phía sau chiếc máy giặt tại gian phòng bếp trong nhà ở thuê trọ của Nguyễn Văn T thuê ở tại xóm Tr 2, xã ĐT, huyện PB, tỉnh Thái Nguyên. Phần ma túy còn lại Th cất giấu trong túi xách màu đen đem theo người và để trong túi quần của Th đang mặc.
Đến khoảng 22 giờ ngày 22/6/2021 Th đưa cho Nguyễn Văn T một gói ma túy tổng hợp Ketamine có khối lượng 2,818 gam để sử dụng, T2 chưa kịp sử dụng mà cất giấu ở ngăn tủ trong đặt phòng ngủ của mình, đến ngày 23/6/2021 thì bị Cơ quan điều tra phát hiện bắt giữ.
Với hành vi trên, bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên truy tố đối với bị cáo Dương Ngọc Th về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm h khoản 4 Điều 249 Bộ luật hình sự; truy tố Nguyễn Văn T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm g khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
Nội dung Điều 249 Bộ luật hình sự:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán...thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt từ từ 01 năm đến 05 năm:
...g) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 01 gam đến dưới 20 gam;
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
...h, Có hai chất ma túy trở lên có tổng khối lượng...của các chất đó T2ơng đương với khối lượng...chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản này”.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng...”
[3]. Xét hành vi phạm tội của bị cáo Th là đặc biệt nghiêm trọng, hành vi phạm tội của Nguyễn Văn T là nghiêm trọng. Các bị cáo có đầy đủ năng lực hành vi và năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi của các bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng các chất ma túy, làm phát sinh các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an ở địa phương, vì vậy cần phải được xử lý nghiêm minh bằng pháp luật hình sự.
[4]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo, Hội đồng xét xử thấy:
Bị cáo Dương Ngọc Th chưa có tiền án, tiền sự, bị cáo Nguyễn Văn T có 01 tiền án, chưa được xóa án tích, phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm, ngoài ra bị cáo có nhân thân rất xấu. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, vì vậy các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; bị cáo T2 phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự là tái phạm.
Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng và hình phạt đối với các bị cáo tại phiên tòa là có căn cứ, tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo.
Đề nghị của Luật sư bào chữa cho bị cáo Th về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng cho bị cáo là phù hợp nên được chấp nhận.
[5]. Vật chứng vụ án:
- Số ma túy thu giữ của các bị cáo được niêm phong theo đúng quy định và các vật chứng khác không có giá trị sử dụng cần tịch thu để tiêu hủy.
- Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Bavatel màu đen và 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Samsung màu bạc, kèm theo sim thu giữ khi khám xét nơi ở của Nguyễn Văn T, quá trình điều tra xác định 02 chiếc điện thoại nêu trên là của Nguyễn Đình T2 và Dương Văn C là những người ở trọ cùng với T2, không liên quan đến vụ án nên cần trả lại cho Nguyễn Đình T2 và Dương Văn C quản lý, sử dụng. Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS Max và số tiền 9.780.000 đồng, thu giữ của Nguyễn Văn T; 03 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, kèm theo sim và số tiền 1.995.000 đồng thu giữ của Dương Ngọc Th quá trình điều tra xác định không liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo, cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho các bị cáo. Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen đã cũ không xác định được chủ sở hữu nên cần tịch thu tiêu hủy.
[6]. Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo phạm tội với số lượng ma túy lớn, vì vậy cần phạt bổ sung các bị cáo một khoản tiền để sung quỹ Nhà nước theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Các bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
[7]. Trong vụ án này, về nguồn gốc số ma túy của Dương Ngọc Th bị thu giữ Th khai nhận là do Th mua của đối tượng tên T3 người tỉnh Cao Bằng bán cho ngày 22/6/2021 nhưng không có cơ sở xác định lai lịch của người này nên Cơ quan điều tra không có căn cứ điều tra xử lý. Nguyễn Văn T có hành vi tàng trữ trái phép 03 viên đạn, qua giám định là đạn cỡ 7,62x25mm thuộc vũ khí quân dụng trong đó có 02 viên còn sử dụng bắn được, 01 viên không sử dụng bắn được, hành vi này là vi phạm hành chính nên đã bị xử phạt hành chính theo quy định. Đối với hành vi của Dương Văn C do không liên quan đến vụ án này, Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện Phú Bình điều tra xử lý trong một vụ án khác.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự;
Tuyên bố: Các bị cáo Dương Ngọc Th và Nguyễn Văn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
I. Về hình phạt:
1. Căn cứ vào điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Dương Ngọc Th: 17 (mười bẩy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 23/6/2021. Phạt bổ sung bị cáo 10.000.000đ (mười triệu đồng) để sung quỹ Nhà nước.
2. Căn cứ vào điểm g khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T: 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 24/6/2021. Phạt bổ sung bị cáo 5.000.000đ (năm triệu đồng) để sung quỹ Nhà nước.
3. Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự; Hội đồng xét xử quyết định tiếp tục tạm giam các bị cáo Dương Ngọc Th và Nguyễn Văn T 45 (bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.
II. Vật chứng vụ án: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
1. Tịch thu tiêu hủy:
- 01 (một) túi đeo chéo màu đen đã qua sử dụng;
- 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu A1, còn nguyên vẹn, trên mép dán có chữ ký ghi họ tên của Nguyễn Minh T, Nguyễn Văn Tân và 03 hình dấu tròn của Phòng KTHS Công an tỉnh Thái Nguyên, bên trong có 5,061gam (năm phẩy không sáu một gam) chất ma túy, loại Methamphetamine hoàn trả sau giám định (thu giữ của Dương Ngọc Th);
- 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu A2, còn nguyên vẹn, trên mép dán có chữ ký ghi họ tên của Nguyễn Minh T, Nguyễn Văn Tân và 03 hình dấu tròn của Phòng KTHS Công an tỉnh Thái Nguyên, bên trong có vỏ bao gói mẫu A2 hoàn trả sau giám định (thu giữ của Dương Ngọc Th);
- 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu A3, còn nguyên vẹn, trên mép dán có chữ ký ghi họ tên của Nguyễn Minh T, Nguyễn Văn Tân và 03 hình dấu tròn của Phòng KTHS Công an tỉnh Thái Nguyên, bên trong có 19,467gam (mười chín phẩy bốn trăm sáu bẩy gam) chất ma túy, loại Methamphetamine và vỏ bao gói mẫu A3 hoàn trả sau giám định (thu giữ của Dương Ngọc Th);
- 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu A4, còn nguyên vẹn, trên mép dán có chữ ký ghi họ tên của Nguyễn Minh T, Nguyễn Văn Tân và 03 hình dấu tròn của Phòng KTHS Công an tỉnh Thái Nguyên, bên trong có vỏ bao gói mẫu A4 hoàn trả sau giám định (thu giữ của Dương Ngọc Th);
- 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu T1, còn nguyên vẹn, trên mép dán có chữ ký ghi họ tên của Trương Đăng Tam, Hoàng Thành L và 02 hình dấu tròn của Phòng KTHS Công an tỉnh Thái Nguyên, bên trong có 0,099gam (không phẩy không chín chín gam) chất ma túy, loại Methamphetamine và vỏ bao gói mẫu T1 hoàn trả sau giám định (thu giữ của Dương Ngọc Th);
- 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu T2, còn nguyên vẹn, trên mép dán có chữ ký ghi họ tên của Trương Đăng T, Hoàng Thành L và 02 hình dấu tròn của Phòng KTHS Công an tỉnh Thái Nguyên, bên trong có 0,331gam (không phẩy ba trăm ba mốt gam) chất ma túy, loại MDMA và vỏ bao gói mẫu T2 hoàn trả sau giám định (thu giữ của Dương Ngọc Th);
- 01 (một) cân tiểu ly màu đen dạng cân điện tử, trên mặt có ghi chữ nước ngoài. (thu giữ tại nhà Nguyễn Văn T);
- 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu L1, còn nguyên vẹn, trên mép dán có chữ ký ghi họ tên của Hồ Quang T, Đặng Tuấn A, Hoàng N Nhất, Nguyễn Quang T, Nguyễn Văn T và 03 hình dấu tròn của Cơ quan CSĐT Công an huyện Phú Bình, bên trong có 1,82 gam (một phẩy tám hai gam) chất ma túy, loại Ketamine (thu giữ tại nhà Nguyễn Văn T);
- 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu L2, còn nguyên vẹn, trên mép dán có chữ ký ghi họ tên của Hồ Quang T, Đặng Tuấn A, Hoàng Ngọc N, Nguyễn Quang T, Nguyễn Văn T và 03 hình dấu tròn của Cơ quan CSĐT Công an huyện Phú Bình, bên trong có 18,971 gam (mười tám phẩy chín trăm bẩy mốt gam) chất ma túy, loại Methamphetamine (thu giữ tại nhà Nguyễn Văn T);
- 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu L3, còn nguyên vẹn, trên mép dán có chữ ký ghi họ tên của Hồ Quang Trung, Đặng Tuấn Anh, Hoàng Ngọc Nhất, Nguyễn Quang Thành, Nguyễn Văn T và 03 hình dấu tròn của Cơ quan CSĐT Công an huyện Phú Bình, bên trong có 0,098 gam (không phẩy không chín tám gam) chất ma túy, loại Methamphetamine (giữ tại nhà Nguyễn Văn T);
- 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu L4, còn nguyên vẹn, trên mép dán có chữ ký ghi họ tên của Hồ Quang Trung, Đặng Tuấn Anh, Hoàng Ngọc Nhất, Nguyễn Quang Thành, Nguyễn Văn T và 03 hình dấu tròn của Cơ quan CSĐT Công an huyện Phú Bình, bên trong có 19,21 gam (mười chín phẩy hai mốt gam) chất ma túy, loại Methamphetamine (thu giữ tại nhà Nguyễn Văn T);
- 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu L5, còn nguyên vẹn, trên mép dán có chữ ký ghi họ tên của Hồ Quang Trung, Đặng Tuấn Anh, Hoàng Ngọc Nhất, Nguyễn Quang Thành, Nguyễn Văn T và 03 hình dấu tròn của Cơ quan CSĐT Công an huyện Phú Bình, bên trong có 0,086 gam (không phẩy không tám sáu gam) chất ma túy, loại Methamphetamine (thu giữ tại nhà Nguyễn Văn T);
- 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu L6, còn nguyên vẹn, trên mép dán có chữ ký ghi họ tên của Hồ Quang T, Đặng Tuấn A, Hoàng Ngọc N, Nguyễn Quang T, Nguyễn Văn T và 03 hình dấu tròn của Cơ quan CSĐT Công an huyện Phú Bình, bên trong có 46,258 gam (bốn mươi sáu phẩy hai trăm năm tám gam) chất ma túy, loại Methamphetamine (vật chứng thu giữ tại nhà Nguyễn Văn T);
- 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu L7, còn nguyên vẹn, trên mép dán có chữ ký ghi họ tên của Hồ Quang Trung, Đặng Tuấn Anh, Hoàng Ngọc Nhất, Nguyễn Quang Thành, Nguyễn Văn T và 03 hình dấu tròn của Cơ quan CSĐT Công an huyện Phú Bình, bên trong có 35,724 gam (ba mươi năm phẩy bẩy trăm hai T2 gam) chất ma túy, loại Methamphetamine (thu giữ tại nhà Nguyễn Văn T);
- 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu A1, còn nguyên vẹn, trên mép dán có chữ ký ghi họ tên của Nguyễn Minh T, Hoàng Thành L và 03 hình dấu tròn của Phòng KTHS Công an tỉnh Thái Nguyên, bên trong có 0,887gam (không phẩy tám trăm tám bẩy gam) chất ma túy, loại Ketamine và vỏ bao gói mẫu A1 hoàn trả sau giám định (thu giữ tại nhà Nguyễn Văn T);
- 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu B1, còn nguyên vẹn, trên mép dán có chữ ký ghi họ tên của Nguyễn Minh T, Hoàng Thành L và 03 hình dấu tròn của Phòng KTHS Công an tỉnh Thái Nguyên, bên trong có 0,798gam (không phẩy bẩy trăm chín tám gam) chất ma túy, loại Methamphetamine và vỏ bao gói mẫu B1 hoàn trả sau giám định (thu giữ tại nhà Nguyễn Văn T);
- 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu B2, còn nguyên vẹn, trên mép dán có chữ ký ghi họ tên của Nguyễn Minh T, Hoàng Thành L và 03 hình dấu tròn của Phòng KTHS Công an tỉnh Thái Nguyên, bên trong có vỏ bao gói mẫu B2 hoàn trả sau giám định (thu giữ tại nhà Nguyễn Văn T);
- 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu B3, còn nguyên vẹn, trên mép dán có chữ ký ghi họ tên của Nguyễn Minh T, Hoàng Thành L và 03 hình dấu tròn của Phòng KTHS Công an tỉnh Thái Nguyên, bên trong có 0,717gam (không phẩy bẩy trăm mười bẩy gam) chất ma túy, loại Methamphetamine và vỏ bao gói mẫu B3 hoàn trả sau giám định (thu giữ tại nhà Nguyễn Văn T);
- 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu B4, còn nguyên vẹn, trên mép dán có chữ ký ghi họ tên của Nguyễn Minh T, Hoàng Thành L và 03 hình dấu tròn của Phòng KTHS Công an tỉnh Thái Nguyên, bên trong có vỏ bao gói mẫu B4 hoàn trả sau giám định (thu giữ tại nhà Nguyễn Văn T);
- 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu B5, còn nguyên vẹn, trên mép dán có chữ ký ghi họ tên của Nguyễn Minh T, Hoàng Thành L và 03 hình dấu tròn của Phòng KTHS Công an tỉnh Thái Nguyên, bên trong có 3,112gam (ba phẩy một trăm mười hai gam) chất ma túy, loại Methamphetamine và vỏ bao gói mẫu B5 hoàn trả sau giám định (thu giữ tại nhà Nguyễn Văn T);
- 01 (một) phong bì niêm phong còn ký hiệu C1, còn nguyên vẹn, trên mép dán có chữ ký ghi họ tên của Nguyễn Minh T, Hoàng Thành L và 03 hình dấu tròn của Phòng KTHS Công an tỉnh Thái Nguyên, bên trong có 4,338 gam (bốn phẩy ba trăm ba tám gam) chất ma túy, loại Methamphetamine và vỏ bao gói mẫu C1 hoàn trả sau giám định (thu giữ tại nhà Nguyễn Văn T);
- 01 (một) túi niêm phong mã số NS2 2006048, còn nguyên vẹn;
- 01 (một) túi niêm phong mã số NS2 2006049, còn nguyên vẹn;
- 01 (một) vỏ niêm phong ký hiệu A;
- 01 (một) vỏ niêm phong ký hiệu B;
- 01 (một) vỏ niêm phong ký hiệu C.
- 01 (một) vỏ niêm phong ký hiệu E;
- 01 (một) vỏ niêm phong ký hiệu LĐ.
- 01 (một) hộp gỗ màu nâu, bên trong có màu đỏ.
- 01 (một) cuốn sổ màu đen, bên trong trang thứ hai ghi: “Ngày 13/4/: V vay 6.500.000đ; Ngày 13/4: LL vay 7.500.000đ; Ngày 17/4: G vay: 4.000.000đ; Ngày 17/4: D vay: 4.000.000đ; Ngày 18/4; O vay: 1.000.000đ; Ngày 22/4: O vay:
500.000đ; Ngày 22/4: M vay: 4.000.000đ; Ngày 23/4: N vay: 2.000.000đ các dòng ghi nội dung trên đã được gạch ngang. (thu giữ tại nhà Nguyễn Văn T).
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 105 màu đen được niêm phong trong 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu ĐT2, còn nguyên vẹn trên mép dán có chữ ký ghi họ tên của Ngô Văn Quỳnh, Dương Văn Quyến, Đàm Hoàng Sơn, Nguyễn Văn T và 03 hình dấu tròn của Cơ quan CSĐT Công an huyện Phú Bình.
2. Tạm giữ của Dương Ngọc Th để đảm bảo thi hành án:
- 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu NT1, còn nguyên vẹn trên mép dán có chữ ký ghi họ tên của Ngô Thanh T, Nguyễn Đức S, Hoàng Thanh Q1, Dương Ngọc Th và 03 hình dấu tròn của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Thái Nguyên, bên trong có 01 điện thoại di động Iphone vỏ màu trắng, số IMEI:
356770086173570 lắp thẻ sim có số thuê bao 0975828611;
- 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu NT2, còn nguyên vẹn trên mép dán có chữ ký ghi họ tên của Ngô Thanh T, Nguyễn Đức S, Hoàng Thanh Q1, Dương Ngọc Th và 03 hình dấu tròn của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Thái Nguyên, bên trong có 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu vàng, số IMEI: 353340073359120 không lắp sim;
- 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu NT3, còn nguyên vẹn trên mép dán có chữ ký ghi họ tên của Ngô Thanh T, Nguyễn Đức S, Hoàng Thanh Q1, Dương Ngọc Th và 03 hình dấu tròn của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Thái Nguyên, bên trong có 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu hồng, số ID: BCG-E2946A, không lắp sim;
- Số tiền: 1.995.000đ (một triệu chín trăm chín mươi lăm nghìn đồng).
3. Tạm giữ của Nguyễn Văn T để đảm bảo thi hành án:
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS Max được niêm phong trong 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu ĐT1, còn nguyên vẹn trên mép dán có chữ ký ghi họ tên của Ngô Văn Quỳnh, Dương Văn Quyến, Đàm Hoàng Sơn, Nguyễn Văn T và 03 hình dấu tròn của Cơ quan CSĐT Công an huyện Phú Bình;
- Số tiền 9.780.000đ (chín triệu bẩy trăm tám mươi nghìn đồng).
4. Trả lại cho Nguyễn Đình T2: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Bavatel được niêm phong trong 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu ĐT3, còn nguyên vẹn trên mép dán có chữ ký ghi họ tên của Ngô Văn Quỳnh, Dương Văn Quyến, Đàm Hoàng Sơn, Nguyễn Văn T và 03 hình dấu tròn của Cơ quan CSĐT Công an huyện Phú Bình.
5. Trả lại cho Dương Văn C: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu bạc, được niêm phong trong 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu ĐT4, còn nguyên vẹn trên mép dán có chữ ký ghi họ tên của Ngô Thanh T, Nguyễn Đức S, Dương Văn C và 03 hình dấu tròn của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Thái Nguyên, bên trong có 01 điện thoại nhãn hiệu SAMSUNG màu bạc, sử dụng sim điện thoại số thuê bao 0344285971, số Imei 1: 354905/08/433664/5, số Imei 2: 354906/08/433664/3 (thu giữ tại nhà Nguyễn Văn T).
(Tình trạng, số lượng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng số 24 ngày 16 tháng 11 năm 2021 giữa Công an tỉnh Thái Nguyên với Cục THADS tỉnh Thái Nguyên; số tiền theo Ủy nhiệm chi số 367 ngày 17 tháng 11 năm 2021).
III. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016: Buộc các bị cáo Dương Ngọc Th và Nguyễn Văn T, mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.
Các bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 07/2022/HS-ST
Số hiệu: | 07/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thái Nguyên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/02/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về