TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 07/2021/HSST NGÀY 29/10/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 29 tháng 10 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 03/2021/TLST-HS ngày 01 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2021/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 10 năm 2021 đối với bị cáo:
Họ và tên: Lò Văn H Tên gọi khác: Không.
Sinh ngày: 17/7/1989 tại Đ.
Nơi cư trú: Bản P, xã N, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên.
Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa (học vấn): 09/12 PT; Con ông: Lò Văn S - sinh năm 1936 và con bà Quàng Thị B - sinh năm 1956; Có vợ: Lò Thị P - sinh năm 1993 và 02 con (con lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2016); Tiền án: không, tiền sự: Không; Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/7/2021 đến ngày 13/8/2021 được áp dụng biện pháp Bảo lĩnh cho đến ngày xét xử. (Có mặt)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Lò Thị P - sinh năm 1993. Nơi cư trú: Bản P, xã N, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên. (Có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 14 giờ 45 phút ngày 23/7/2021, tổ công tác Công an xã Mường Phăng, thành phố Điện Biên Phủ đang làm nhiệm vụ tại khu vực Bản L, xã M, phát hiện Lò Văn H đang điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX BKS 27B1-123.xx có biểu hiện nghi vấn phạm tội về ma túy. Tổ công tác yêu cầu dừng xe để kiểm tra, phát hiện trong túi áo ngực bên trái đang mặc của H một gói nhỏ được gói ngoài bằng mảnh nilon màu xanh bên trong có chứa các cục chất bột màu trắng đục. Lò Văn H khai nhận đó là Heroine, H mua về để sử dụng cho bản thân.
Quá trình điều tra Lò Văn H khai nhận: Số ma túy bị thu giữ là do bị cáo mua của người phụ nữ dân tộc Mông khoảng 50 tuổi không quen biết ở khu vực Bản L, xã M vào khoảng 14 giờ cùng ngày với giá 50.000 đồng. Sau khi mua được ma túy bị cáo cất vào túi áo ngực bên trái đang mặc rồi điều khiển xe về nhà thì bị phát hiện bắt quả tang.
Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói nilon màu xanh bên trong chứa các cục chất bột màu trắng đục, khối lượng 0,23 gam; xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX BKS 27B1-123.xx kèm chìa khóa của xe.
Tại bản kết luận giám định số 877/GĐ-PC09 ngày 30/7/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu chất bột màu trắng ký hiệu M gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroine. Khối lượng vật chứng là 0,23 gam. Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 9, mục IA, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018. Hoàn lại mẫu vật có biên bản đóng gói, niêm phong và giao, nhận lại đối tượng giám định kèm theo.
Tại bản cáo trạng số 123/CT-VKSTPĐBP ngày 30/9/2021 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ đã truy tố bị cáo Lò Văn H về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ giữ quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Đề nghị Hội đồng xét xử:
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51/BLHS: Xử phạt bị cáo từ 12 đến 15 tháng tù.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47/BLHS; điểm a, c khoản 2 Điều 106/BLTTHS. Tịch thu tiêu hủy 0,16 gam Heroine vật chứng còn lại sau giám định và 01 mảnh nilon màu xanh. Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước ½ giá trị xe mô tô 27B1-123.xx. Trả lại cho chị Lò Thị P ½ giá trị chiếc xe này.
Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến tranh luận gì về phần luận tội và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ. Bị cáo không bào chữa gì cho hành vi của mình.
Lời nói sau cùng: Bị cáo đề nghị HĐXX xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được sớm trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, truy tố, phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản tạm giữ đồ vật tài liệu, Biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định chất ma túy niêm phong lại vật chứng, Kết luận giám định...Do đó, có đủ cơ sở khẳng định: Hồi 14 giờ 45 phút ngày 23/7/2021 tại khu vực Bản L, xã M, thành phố Đ, Lò Văn H đã có hành vi cất giấu trái phép trên người 0,23 gam Heroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.
Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ đa truy t ố đôi vơi bị cáo là có căn cứ pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây mất trật tự, an toàn xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện tội phạm với lỗi cố ý.
[2]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo: Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52/BLHS.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo có bố được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51/BLHS.
Về nhân thân: Bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy. Chưa bị Tòa án xét xử, chưa bị cơ quan nào xử phạt vi phạm hành chính. Tuy nhiên nhưng do thiếu ý thức tu dưỡng, rèn luyện bản thân nên đã sử dụng ma túy, đây cũng là nguyên nhân dẫn đến việc bị cáo phạm tội.
Hình phạt mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo nên hội đồng xét xử chấp nhận. Cần thiết phải áp dụng mức hình phạt tù phù hợp, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo có thời gian cai nghiện trở thành công dân tốt, có ý thức tuân thủ pháp luật. Có thể cho bị cáo mức hình phạt tù thấp nhất theo đề nghị của Kiểm sát viên cũng đủ để răn đe, giáo dục bị cáo.
[3]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249/BLHS thì ngoài hình phạt chính người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng... Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là người nghiện ma túy, không có tài sản gì có giá trị. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo vì bị cáo không có khả năng thi hành.
[4]. Về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng:
Đối với 0,23 gam Heroine thu giữ của bị cáo, sau khi gửi toàn bộ để giám định còn lại 0,16 gam - vật chứng còn lại của vụ án, là vật Nhà nước cấm tàng trữ; 01 mảnh nilon màu xanh là vật dùng gói ma túy không có giá trị, không sử dụng được nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 47/BLHS và điểm a, c khoản 2 Điều 106/BLTTHS.
Đối với chiếc xe mô tô BKS 27B1-123.xx thu giữ của bị cáo là phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội. Đây là xe mang tên bị cáo nhưng là tài sản chung của bị cáo và vợ là Lò Thị P, chị P không có lỗi trong việc bị cáo sử dụng xe vào làm phương tiện phạm tôi nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47/BLHS; điểm a khoản 2 và điểm b khoản 3 Điều 106/BLTTHS cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước ½ giá trị của chiếc xe kèm giấy tờ xe và trả lại cho chị P ½ giá trị chiếc xe này.
[5]. Các vấn đề khác: Đối với đối tượng bị cáo khai đã bán ma túy, quá trình điều tra không có cơ sở xác minh làm rõ, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát không đề cập nên hội đồng xét xử không xem xét xử lý.
[6]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Công an thành phố Điện Biên Phủ, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo, người tham gia tố tụng khác đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Công an thành phố Điện Biên Phủ, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ đều hợp pháp.
[7]. Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Lò Văn H phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Lò Văn H 01 (Một) năm tù. Khấu trừ cho bị cáo thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/7/2021 đến ngày 13/8/2021 là 22 ngày. Bị cáo còn phải chấp hành 11 tháng 08 ngày tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày đi thi hành án.
2. Về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 và điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
- Tịch thu tiêu hủy 0,16 gam Heroine vật chứng còn lại sau giám định và 01 mảnh nilon màu xanh (đã niêm phong).
- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước nộp ½ giá trị của chiếc xe mô tô đã qua sử dụng nhãn hiệu Honda Wave RSX BKS 27B1-123.xx, số khung RLHJC5225CY024596, số máy JC52E-5105609 kèm chìa khóa của xe. Trả lại cho chị Lò Thị P ½ giá trị chiếc xe này.
(Vật chứng đã được Công an thành phố Điện Biên Phủ bàn giao sang Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Điện Biên Phủ theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 01/10/2021).
3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (29/10/2021). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 07/2021/HSST
Số hiệu: | 07/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/10/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về