Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 06/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CAO BẰNG, TỈNH CAO BẰNG

BẢN ÁN 06/2024/HS-ST NY 23/01/2024 VỀ TỘI TÀNG TR TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 01 năm 2024 tại Phòng xét xử Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 177/2023/TLST-HS ngày 15 tháng 12 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2024/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 01 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng đối với bị cáo:

Phan Văn K; Tên gọi khác: không; Sinh ngày: 07/12/1989 tại huyện B, tỉnh Cao Bằng; Nơi cư trú: Xóm T, xã C, huyện T, Cao Bằng; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 05/12 phổ thông; Dân tộc: Nùng; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Phan Văn L - sinh năm 1954 và bà: Lò Thị D (đã chết); Vợ: Lý Thị H - sinh năm 1995 (Đă ly hôn); Con: Chưa có; Tiền án: 01 tiền án: Ngày 23/11/2021 Tòa án nhân dân huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng xử phạt 15 tháng tù về tội trộm cắp tài sản; Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/9/2023; Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố C, tỉnh Cao Bằng; Có mặt.

- Người có quyền lợi liên quan: Phạm Thị Ngọc L1 - sinh năm 1985; trú tại: Tổ A, phường S, thành phố C, tỉnh Cao Bằng; vắng mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nông Thị Thu T - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh C; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 13h00’ ngày 15/9/2023 tại tổ A, phường H, thành phố C, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế - ma túy Công an thành phố C bắt quả tang Phan Văn K có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tài liệu, đồ vật thu giữ gồm: 01 gói giấy vệ sinh màu trắng, bên trong là lớp giấy viết màu trắng có chứa chất bột màu trắng dạng cục lẫn bột của K để trong túi đằng trước bên trái chiếc quần đang mặc (do K tự giao nộp) có khối lượng 0,12g (không phay mười hai gam); 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Future II, màu xanh, biển kiểm soát 11F6 - 0668, xe cũ đã qua sử dụng.

Ngày 15/9/2023 cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố C ra Quyết định trưng cầu giám định số 333 đối với vật chứng của vụ án. Tại Kết luận giám định số 486/KL-KTHS ngày 21/9/2023 của Phòng K1 Công an tỉnh C kết luận: Mẫu chất bột màu trắng bên trong phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, loại: Heroine (Heroin).

Quá trình điều tra đủ căn cứ xác định: Do bản thân sử dụng ma túy nên khoảng 12h00’ ngày 15/9/2023 Phan Văn K một mình điều khiển xe mô tô biển kiểm soát: 11F6 - 06xx đi từ nhà của Phạm Thị Ngọc L1 (Bạn gái của K, sinh năm 1985; trú tại tổ A, phường S, thành phố C) đến khu vực đầu cầu B thuộc tổ A, phường H, thành phố C, tỉnh Cao Bằng để tìm mua ma túy. Tại đây, K gặp và mua với một người đàn ông trông giống người nghiện (không biết tên, tuổi, địa chỉ) với số tiền 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) được 01 (một) gói ma tuý, bên ngoài gói bằng giấy vệ sinh màu trắng, bên trong có lớp giấy viết màu trắng chứa Heroine. K cất gói ma túy vào túi đằng trước bên trái chiếc quần đang mặc rồi đi tìm chỗ để sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị Công an kiểm tra phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng đã nêu ở trên.

Hành vi của Phan Văn K đã bị cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố C, tỉnh Cao Bằng lập hồ sơ đề nghị truy tố trước pháp luật về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại bản Cáo trạng số: 02/CT-VKSTP ngày 15/12/2023 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng truy tố bị cáo Phan Văn K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Phan Văn K thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố. Bị cáo không có ý kiến và nhất trí với khối lượng ma túy bị thu giữ cũng như kết luận giám định số: 486/KL-KTHS ngày 21/9/2023 của Phòng K1 Công an tỉnh C. Bị cáo khai nhận bản thân sử dụng ma túy (heroine) bằng hình thức chích vào cơ thể. Ngày 15/9/2023 bị cáo mua ma tuý với mục đích để bản thân sử dụng, ngoài ra không có mục đích gì khác. Đối với tài sản bị tạm giữ bị cáo khai: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Future II, biển kiểm soát: 11F6 - 06xx là của bạn gái bị cáo - Phạm Thị Ngọc L1. Khi cho mượn xe, L1 không biết bị cáo sử dụng xe để đi mua ma tuý. Đề nghị Hội đồng xét xử trả lại chiếc xe trên cho chị L1.

Tại các lời khai trong hồ sơ và đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa, người có quyền lợi liên quan Phạm Thị Ngọc L1 thể hiện: Chị là người yêu của bị cáo K. Chiếc xe mô tô biển kiểm soát 11F6 - 06xx là của chị mua. Ngày 15/9/2023 K chỉ nói mượn xe đi mua đồ dùng cá nhân nên chị không biết việc K dùng xe của chị để đi mua ma túy. Mong Hội đồng xét xử xem xét trả lại chiếc xe trên cho chị.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Phan Văn K; đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Phan Văn K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo từ 15 tháng đến 18 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị: Tịch thu, tiêu hủy phong bì niêm phong bên trong có chứa ma tuý thu giữ của bị cáo Phan Văn K; trả lại chiếc xe mô tô biên kiểm soát 11F6 - 06xx cho chủ sở hữu là chị Phạm Thị Ngọc L1. Về án phí: Quá trình điều tra và tại phiên tòa đều thể hiện bị cáo đang trong độ tuổi lao động, có khả năng nộp tiền án phí. Vì vậy, không chấp nhận việc bị cáo xin miễn án phí, đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Người bào chữa cho bị cáo Phan Văn K trình bày: Nhất trí với quan điểm và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, điều luật, mức đề nghị hình phạt đối với bị cáo K. Tuy nhiên, bị cáo là người dân tộc thiểu số, cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên nhận thức pháp luật còn hạn chế; về mức độ, hành vi phạm tội: Khối lượng ma túy mà bị cáo tàng trữ là 0,12 gam, chỉ trên mức định khung hình phạt một chút; quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà hôm nay bị cáo luôn thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Vì vậy, mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo mức án thấp nhất mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị, không áp dụng hình phạt bổ sung. Về án phí: Bị cáo thuộc trường hợp được miễn án phí quy định tại điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội và đã có có đơn xin miễn án phí. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được miễn án phí.

Kiểm sát viên có ý kiến tranh luận: Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội có quy định trường hợp người dân tộc thiểu số, cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Tuy nhiên, trong vụ án này bị cáo đã bị xét xử và thi hành án về tội Trộm cắp tài sản nhưng không lấy đó làm bài học rút kinh nghiệm cho bản thân, tiếp tục phạm tội khi chưa được xóa án tích; bị cáo có khả năng lao động và có tiền để sử dụng ma túy nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét buộc bị cáo phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phần tranh luận, bị cáo nhất trí với quan điểm bảo vệ của người bào chữa và không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng.

Khi được nói lời sau cùng, bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm được trở về với xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về các hành vi và quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố C, tỉnh Cao Bằng; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về tội danh:

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang; lời khai của người có quyền lợi liên quan; kết luận giám định; vật chứng cùng các tài liệu khác trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ xác định: Hồi 13h00’ ngày 15/9/2023 tại tổ A, phường H, thành phố C, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế - ma túy Công an thành phố C bắt quả tang Phan Văn K có hành vi tàng trữ trái phép 0,12g (không phẩy mười hai gam) ma túy loại Heroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất gây nghiện, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội và là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại nhiều mặt của ma túy nhưng vẫn thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng truy tố bị cáo Phan Văn K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] . Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về nhân thân: Bị cáo Phan Văn K là đối tượng nghiện, có nhân thân xấu, có 01 tiền án: Ngày 23/11/2021 Tòa án nhân dân huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng xử phạt 15 tháng tù về tội trộm cắp tài sản.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Do bị cáo đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[4]. Về hình phạt:

[4.1]. Về hình phạt chính:

Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với Phan Văn K, bởi bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không thể tự cải tạo, cần thiết phải cách ly ra khỏi xã hội một thời gian nhất định. Trong vụ án này, bị cáo tàng trữ khối lượng ma túy không lớn (0,12 gam) nhưng xét thấy: Ngày 23/11/2021 Phan Văn K bị Tòa án nhân dân huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng xử phạt 15 tháng tù về tội trộm cắp tài sản. Đến ngày 27/11/2022 K chấp hành xong án phạt tù trở về địa phương nhưng không lấy đó làm bài học mà đến ngày 15/9/2023 lại tiếp tục phạm tội khi chưa được xóa án tích. Điều đó thể hiện thái độ, ý thức chấp hành pháp luật kém của bị cáo. Khi lượng hình Hội đồng xét xử xem xét toàn diện tính chất, mức độ hành vi phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và ý thức chấp hành pháp luật của bị cáo, thấy rằng: cần xử phạt bị cáo hình phạt trên mức khởi điểm của khung hình phạt bị truy tố mới đủ nghiêm khắc để cải tạo giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa tội phạm nói chung.

[4.2]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là người nghiện ma túy, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5]. Về xử lý vật chứng:

- Vật chứng là ma tuý thì cần tịch thu, tiêu hủy.

- Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 11F6 - 0668: Qua điều tra xác minh xác định được chủ sở hữu là Phạm Thị Ngọc L1 (bạn gái bị cáo) mua với chị Nông Thị T1 (địa chỉ: Tổ A, phường Đ, thành phố C) năm 2009 với giá 12.000.000đ để làm phương tiện đi lại. Ngày 15/9/2023 bị cáo K đến thăm và mượn xe của LI đi mua đồ dùng cá nhân. Chị L1 không biết việc K sử dụng ma túy và dùng xe của chị đề đi mua ma túy. Ngày 15/10/2023 chị đã có Đơn xin lại tài sản. Hội đồng xét xử xét thấy cần trả lại chiếc xe mô tô trên cho chủ sở hữu là chị Phạm Thị Ngọc L1.

[6]. Về án phí: Bị cáo Phan Văn K là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, có đơn xin miễn án phí. Tuy nhiên quá trình điều tra và tại phiên tòa đều thể hiện bị cáo đang trong độ tuổi lao động, có tiền để mua ma túy sử dụng hàng ngày. Hội đồng xét xử xét thấy cần buộc bị cáo chịu 200.000đ tiền án phí hình sự mới đảm bảo tính răn đe đối với bị cáo.

[7]. Về những vấn đề khác:

[7.1]. Đối với nguồn gốc số ma túy, K khai được mua với một người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ ở đâu nên cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra xác minh.

[7.2] Xét thấy đề nghị của Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng về tội danh, hình phạt, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ, quan điểm xử lý vật chứng là phù hợp với tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo Phan Văn K nên cần được chấp nhận. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Phan Văn K phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Phan Văn K 16 (mười sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành án đối với bị cáo được tính kể từ ngày 15/9/2023.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, xử:

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong, mặt trước phong bì ghi: “Số 486/KL-KTHS. Hoàn mẫu sau giám định vụ Phan Văn K, có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, xảy ra ngày 15/9/2023” (Kèm theo Kết luận giám định số 486/KL - KTHS, ngày 21/9/2023 của Phòng K1 Công an tỉnh C);

- Trả lại cho Phạm Thị Ngọc L1 (sinh năm 1985; trú tại: Tổ A, phường S, thành phố C, tỉnh Cao Bằng): 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Future II, màu xanh, biển kiểm soát 11F6 - 0668, số khung: RLHJC35065Y019585, số máy: JC35E0019689, xe cũ đã qua sử dụng (đăng ký lần đầu năm 2005). Kiểm tra thực tế: Xe có 01 gương chiếu hậu bên trái, một số bộ phận của xe đã bị han gỉ và xước sơn. Xe có số khung, số máy trùng khớp với phiếu trả lời xác minh phương tiện giao thông cơ giới đường bộ ngày 21/9/2023 của Công an thành phố C cung cấp (có 01 chìa khóa xe kèm theo);

Xác nhận số vật chứng này hiện nay đang nằm tại kho tang vật của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng theo Biên bản giao, nhận vật chứng số 38 ngày 22/12/2023.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, buộc bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung ngân sách Nhà nước.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 332, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi liên quan Phạm Thị Ngọc L1 có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

11
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 06/2024/HS-ST

Số hiệu:06/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cao Bằng - Cao Bằng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về