Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 06/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N – TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 06/2024/HS-ST NGÀY 28/02/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 47/2023/HSST ngày 08 tháng 12 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 05/2024/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 01 năm 2024 và Thông báo dời thời gian xét xử số: 02/2024/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 02 năm 2024 đối với bị cáo:

NGUYỄN THÀNH U (Nh), sinh năm: 2000 tại tỉnh Ninh Thuận. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Th 2, xã D, huyện N, tỉnh Ninh Thuận; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 5/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Ph và bà Phan Thị H; chưa có vợ, con; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 24/10/2023, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện N, tỉnh Ninh Thuận. (Có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm: 1993; nơi cư trú: Th 2, xã D, huyện N, tỉnh Ninh Thuận. (Xin xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1 Ngày 21/10/2023, Nguyễn Thành U sử dụng điện thoại hiệu Vivo V2027 gắn sim số 0398343X và 0349433X để liên hệ với người tên Ngô Lê Huyền Tr ở xã V, huyện T, tỉnh Bình Thuận qua tài khoản mạng xã hội Zalo và số thuê bao X9774X để mua ma túy loại Methamphetamine về sử dụng, Tr nói chưa có ma túy để bán, khi nào có sẽ gọi lại cho U. Khoảng 17 giờ ngày 23/10/2023, Tr liên hệ lại với U có ma túy và bán với giá 400.000 đồng, U đồng ý mua và nhờ người mang đến xã Cà Ná để giao. Khoảng 21 giờ 25 phút cùng ngày, có người sử dụng số thuê bao 0862970X gọi cho U nói được Trâm nhờ giao ma túy và hẹn địa điểm giao dịch tại khu vực đường liên thôn cạnh nhà nghỉ T H thuộc thôn L 2, xã C, huyện N, tỉnh Ninh Thuận. U đồng ý và một mình điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 85E1-087.90 đến địa điểm nêu trên gặp một nam thanh niên (không rõ nhân thân, lai lịch), U đưa cho người này số tiền 200.000 đồng và hẹn sẽ trả cho Trâm số tiền còn lại, người này đồng ý và chỉ cho U vị trí cất giấu ma túy trong 01 khẩu trang y tế đã qua sử dụng, được đựng trong 01 vỏ bao thuốc lá ở gần đó rồi điều khiển xe mô tô bỏ đi. U đến vị trí được chỉ dẫn lấy 02 tép ma túy đựng trong khẩu trang y tế và cất giấu trong người. Cùng lúc này, Công an huyện N phối hợp Công an xã C tuần tra phát hiện U có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu kiểm tra, U vứt ra 02 bịch nilon màu trắng kích thước (3,7 x 1,4)cm và (3,3 x 0,9)cm bên trong chứa tinh thể màu trắng (nghi là ma túy) nên Tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, tạm giữ người, vật chứng có liên quan.

Ngày 24/10/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N trưng cầu giám định chất nghi là ma túy đã thu giữ được khi bắt quả tang Nguyễn Thành U. Kết luận giám định số 235/KL-KTHS, ngày 30/10/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Thuận kết luận: “Chất tinh thể màu trắng (ký hiệu M1, M2) gửi đến giám định là ma túy, loại Methamphetamine. Khối lượng mẫu gửi đến giám định là: M1 có khối lượng 0,4227g (không phẩy bốn hai hai bảy gam); M2 có khối lượng 0,1856g (không phẩy một tám năm sáu gam)”. Như vậy, tổng khối lượng ma túy là 0,6083g (không phẩy sáu không tám ba gam).

Tại bản Cáo trạng số: 01/CT-VKSTN ngày 08 tháng 12 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Thuận đã truy tố bị cáo Nguyễn Thành U (Nh) về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện N giữ quyền công tố luận tội: Hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, do đó Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thành U (Nh) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, với mức án từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù.

2 Lời nói sau cùng: Tại phiên tòa, bị cáo biết hành vi của mình là sai trái vi phạm pháp luật nên mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội như sau: Ngày 23/10/2023 tại thôn L 2, xã C, huyện N, tỉnh Ninh Thuận. Bị cáo Nguyễn Thành U (Nh) bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N phối hợp với Công an xã C bắt quả tang đang tàng trữ trái phép 0,6083 gam ma túy loại Methamphetamine (Tại Kết luận giám định số: 235/KL-KTHS ngày 30 tháng 10 năm 2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Thuận).

Xét thấy hành vi nêu trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy nên Viện kiểm sát nhân dân huyện N truy tố bị cáo Nguyễn Thành U (Nh) về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt.

Qua xem xét hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Hiện nay trên địa bàn huyện N, tỉnh Ninh Thuận thường xuyên xảy ra các tội phạm về ma tuý, nhằm đảm bảo được tình hình an ninh trật tự tại địa phương và tuyên truyền pháp luật nên phải xử phạt bị cáo một mức án thật nghiêm đối với loại tội phạm này. Vì vậy, cần phải cách ly bị cáo Nguyễn Thành U (Nh) ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung là phù hợp với quy định tại Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Về xử lý vật chứng:

3 Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) phong bì giấy được dán kín, có chữ ký niêm phong của Nguyễn Lê Đức Ng, Lê Ngọc Th, Trần Huy H, Phạm Ngọc H, đóng dấu tròn của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Thuận, bên trong chứa 02 mẫu vật còn lại sau giám định là chất ma tuý, loại Methamphetamine khối lượng lần lượt là 0,2887 gam và 0,0890 gam cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định; 01 (Một) nỏ thủy tinh kích thước (9,5 x 06 x 02)cm (Được niêm phong trong 01 phong bì giấy có chữ ký niêm phong của ông Đinh Công B, Hoàng Đăng T, Phan Anh Q, Nguyễn Thành U, dấu vân tay ngón trỏ phải Nguyễn Văn Ph, đóng dấu tròn của Công an xã D); 01 (Một) khẩu trang y tế màu trắng kích thước (17 x 09)cm, đã qua sử dụng (Được niêm phong trong 01 phong bì giấy có chữ ký niêm phong của ông Đinh Công B, Đỗ Văn V, Vũ Nhật A, Nguyễn Văn T, Nguyễn Thành U, đóng dấu tròn của Công an xã C).

Tịch thu sung ngân sách Nhà nước: 01 (Một) điện thoại di động hiệu VIVO V2027 màu xanh, số IMEI 1: 862310052793338, số IMEI 2: 862310052793320, gắn Sim số 0398.343.X và 0349.433.X của bị cáo Nguyễn Thành U (Nh) sử dụng để liên hệ để mua ma túy.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy và tịch thu sung ngân sách Nhà nước vật chứng trên là phù hợp với quy định tại Điều 46 của Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Xe mô tô hiệu SIRIUS biển kiểm soát 85E1-087.90 là của anh Nguyễn Văn H, sinh ngày 03/8/1993, trú tại thôn Th 2, xã D, huyện N, tỉnh Ninh Thuận (anh ruột bị cáo Nguyễn Thành U (Nh)). Anh H đi làm biển để xe mô tô tại nhà, không biết việc bị cáo U tự ý sử dụng phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N trả lại xe mô tô trên cho anh H là có căn cứ. Do đó, Hội đồng xét xử không xét đến.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã xác minh thông tin thuê bao X9.774.X (đăng ký tài khoản Zalo để liên hệ bán ma túy cho bị cáo U) là của chị Ngô Lê Huyền Tr, sinh ngày 11/02/2002, trú tại thôn P, xã V, huyện T, tỉnh Bình Thuận; thuê bao số 0862.970.X (liên lạc khi trực tiếp giao ma túy cho bị cáo U) là của chị Trần Thị Mỹ D, sinh ngày 12/6/1994, trú tại thôn V, xã D, huyện N, tỉnh Ninh Thuận. Tuy nhiên cả hai khai nhận hiện không sử dụng các số thuê bao, tài khoản Zalo trên, không thực hiện hành vi bán trái phép chất ma túy cho bị cáo U. Kết quả đối chất xác định chị Ngô Lê Huyền Tr không phải là người bán ma túy cho bị cáo U. Ngoài ra, không có chứng cứ khác chứng minh hành vi phạm tội của Ngô Lê Huyền Tr, Trần Thị Mỹ D nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N không xử lý hình sự là có căn cứ. Do đó, Hội đồng xét xử không xét đến.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thành U (Nh) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành U (Nh) 18 (Mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 24/10/2023.

Căn cứ Điều 46 của Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) phong bì giấy được dán kín, có chữ ký niêm phong của Nguyễn Lê Đức Ng, Lê Ngọc Th, Trần Huy H, Phạm Ngọc H, đóng dấu tròn của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Thuận, bên trong chứa 02 mẫu vật còn lại sau giám định là chất ma tuý, loại Methamphetamine khối lượng lần lượt là 0,2887 gam và 0,0890 gam cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định; 01 (Một) nỏ thủy tinh kích thước (9,5 x 06 x 02)cm (Được niêm phong trong 01 phong bì giấy có chữ ký niêm phong của ông Đinh Công B, Hoàng Đăng T, Phan Anh Q, Nguyễn Thành U, dấu vân tay ngón trỏ phải Nguyễn Văn Ph, đóng dấu tròn của Công an xã D); 01 (Một) khẩu trang y tế màu trắng kích thước (17 x 09)cm, đã qua sử dụng (Được niêm phong trong 01 phong bì giấy có chữ ký niêm phong của ông Đinh Công B, Đỗ Văn V, Vũ Nhật A, Nguyễn Văn T, Nguyễn Thành U, đóng dấu tròn của Công an xã C).

Tịch thu sung ngân sách Nhà nước: 01 (Một) điện thoại di động hiệu VIVO V2027 màu xanh, số IMEI 1: 862310052793338, số IMEI 2: 862310052793320, gắn Sim số 0398.343.X và 0349.433.X.

(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 08 tháng 12 năm 2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện N giữa Công an huyện N và Chi cục Thi hành án dân sự huyện N).

Căn cứ vào khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội 14 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Thành U (Nh) phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 28/02/2024). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

44
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 06/2024/HS-ST

Số hiệu:06/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ninh Phước - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về