Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 06/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA BÌNH, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 06/2023/HS-ST NGÀY 30/10/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Trong ngày 30 tháng 10 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh Bắc Ninh. Mở phiên toà xét xử công khai theo hình thức trực tuyến đối với vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 02/2023/TLST-HS ngày 05/10/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 03/2023/QĐXXST-HS ngày 17/10/2023, đối với bị cáo:

Trần Đình T, sinh năm 1981; Nơi ĐKHKTT và nơi ở: Thôn T, xã T, huyện G, tỉnh Bắc Ninh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 03/12; nghề nghiệp: Làm ruộng; con ông Trần Đình C (đã chết) và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1959; gia đình có 05 anh em, bị cáo là con lớn; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/7/2023 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh (có mặt tại điểm cầu xét xử thành phần – Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 07/7/2023, Trần Đình T một mình đi bộ từ nhà T ở thôn T, xã T, huyện G sang thôn P, xã Đ, huyện G, tỉnh Bắc Ninh để tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đang đi trên đường Tỉnh lộ 285 đoạn thuộc thôn P, xã Đ T gặp một người đàn ông không quen biết, trông giống người nghiện, T lại gần và hỏi “Anh có ma túy không, để cho em 200.000 đồng” (ý T hỏi mua 200.000 đồng ma túy). Người đàn ông trả lời “Có”, T liền đưa cho người đàn ông này 200.000 đồng, người đàn ông cầm tiền rồi đưa lại cho T 01 đoạn ống nhựa màu tím – trắng được hàn kín hai đầu. T hiểu bên trong ống nhựa chứa ma túy nên T cầm lấy và bỏ đoạn ống nhựa vào bên trong vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng rồi cầm trong lòng bàn tay phải đi về nhà để sử dụng. Khi T đi bộ được một đoạn thì gặp lực lượng Công an xã Đ phát hiện, bắt quả tang. Quá trình kiểm tra, T tự giác giao nộp từ tay phải T đang cầm 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng bên trong có chứa 01 đoạn ống nhựa màu tím và màu trắng được hàn kín hai đầu mở ra bên trong có chất bột màu trắng. T khai chất bột màu trắng đó là ma túy Heroin, T mua về để sử dụng cho bản thân. Ngoài ra, tổ công tác không thu giữ gì khác. Sau đó, tổ công tác tiến hành lập biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng, biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang theo quy định.

Tại Kết luận giám định số 1451/KL-KTHS ngày 09/7/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự – Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận: Chất bột màu trắng bên trong một đoạn ống nhựa màu tím và trắng được hàn kín hai đầu gửi giám định có khối lượng 0,1791 gam; Là ma túy; Loại ma túy: Heroin.

Với nội dung như trên, Cáo trạng số: 52/CTr -VKSGB ngày 05/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện G truy tố Trần Đình T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo Trần Đình T khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai nhận tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện G và thừa nhận Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện G đã truy tố đúng người, đúng tội, không oan. Bị cáo chỉ đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện G thực hành quyền công tố tại phiên tòa đã đưa ra những chứng cứ, kết luận hành vi của bị cáo Trần Đình T đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Sau khi phân tích hành vi phạm tội, căn cứ vào nhân thân của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát đã đề nghị HĐXX:

- Tuyên bố Trần Đình T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt Trần Đình T từ 12 tháng đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 07/7/2023.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu huỷ đối với 01 phong bì thư có chứa mẫu vật ma túy còn lại sau giám định, có chữ ký của giám định viên và dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Ninh.

Bị cáo nhất trí với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát, không đưa ra ý kiến tranh luận.

Tại lời nói sau cùng, bị cáo xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện G, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện G, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, các kết luận giám định và các tài liệu trong hồ sơ; có đủ cơ sở kết luận: Hồi 13 giờ 20 phút ngày 07/7/2023 tại đường Tỉnh lộ 285 đoạn thuộc đoạn thôn P, xã Đ, huyện G, tỉnh Bắc Ninh khi Trần Đình T đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,1791 gam ma túy Heroin, mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác Công an xã Đ, huyện G phát hiện bắt quả tang. Bị cáo Trần Đình T là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nên hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó, Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện G đối với bị cáo Trần Đình T là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội nó đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm, tệ nạn khác gây bất ổn cho xã hội. Bản thân bị cáo là người có đủ nhận thức, năng lực pháp luật và đang trong độ tuổi lao động nhưng thay bằng việc tích cực lao động để tạo ra của cải vật chất nuôi sống bản thân và gia đình thì bị cáo lại ham chơi và mắc nghiệm ma tuý, dẫn đến việc bị cáo thực hiện hành vi tàng trữ ma tuý để sử dụng. Hành vi phạm tội của bị cáo cần phải được xử lý nghiêm bằng luật hình mới đảm bảo được giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[3] Xét về nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Trong suốt quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên toà sơ thẩm bị cáo đều thành khẩn khai báo, thể hiện thái độ ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội mà mình gây ra, bị cáo có bố được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng 3, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo không không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Căn cứ vào tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của người phạm tội. HĐXX thấy cần áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

Bị cáo là người mắc nghiện ma túy, không có nghề nghiệp ổn định nên HĐXX không áp dụng thêm hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về vật chứng: Đối với 01 phong bì thư có chứa mẫu vật ma túy còn lại sau giám định, có chữ ký của giám định viên và dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Ninh là tang vật trong vụ án không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu huỷ.

Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho T vào trưa ngày 07/7/2023 tại đoạn đường tỉnh lộ 285 thuộc thôn P, xã Đ, huyện G. Do T không biết tên, tuổi, địa chỉ và đặc điểm nào khác của người đàn ông đó ở đâu nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện G chưa có đủ căn cứ để điều tra làm rõ. Khi nào xác minh làm rõ sẽ xem xét xử lý sau.

Án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Đình T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; Điều 136; Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Đình T 13 (Mười ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/7/2023.

Tiếp tục tạm giam bị cáo Trần Đình T 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu huỷ đối với 01 phong bì thư có chứa mẫu vật ma túy còn lại sau giám định, có chữ ký của giám định viên và dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Ninh (Vật chứng được miêu tả theo như biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 10/10/2023 giữa Công an huyện G và Chi cục Thi hành án dân sự huyện G).

3. Án phí: Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án buộc bị cáo Trần Đình T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 06/2023/HS-ST

Số hiệu:06/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Bình - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/10/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về