TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 06/2022/HS-ST NGÀY 20/01/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 20 tháng 01 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 163/2021/TLST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 262/2021/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 12 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 69/2021/HSST-QĐ ngày 23 tháng 12 năm 2021 và Thông báo về việc dời phiên tòa xét xử số 06/TB-TA ngày 12 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo:
NGUYỄN THANH S; sinh ngày 02 tháng 6 năm 1994 tại Phú Yên; nơi đăng ký thường trú: thôn T, xã A, huyện B, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn N và bà Nguyễn Thị Đ; vợ, con: không có; nhân thân: Ngày 09/11/2012 Tòa án nhân dân huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 năm kể từ ngày tuyên án (bản án số 23/2012/HSST); tiền án: không; tiền sự: không; bị bắt tạm giữ, tạm giam: 05/6/2021.
(Có mặt)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Nguyễn Ngọc A, sinh năm 1990, nơi cư trú: tổ dân phố 5, thị trấn C, huyện D, tỉnh Đắk Lắk.
(Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 16 giờ 35 phút ngày 05/6/2021, Tổ tuần tra Đội 3 Phòng PC02 Công an Thành phố Hồ Chí Minh trên đường đi tuần tra, khi đến đoạn đường trước số nhà 52A đường N, Phường E, quận F thì phát hiện Nguyễn Thanh S đang điều khiển xe gắn máy hiệu Honda Airblade biển số 47E1-X có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra và mời về trụ sở Công an Phường 10, quận Tân Bình làm việc. Kết quả kiểm tra, phát hiện bắt quả tang Nguyễn Thanh S cất giấu bên trong thắt lưng quần jean đang mặc có 02 gói nylon chứa tinh thể không màu (nghi là ma túy). Kết quả giám định 02 gói nylon trên là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,7723 gam ( Bản kết luận giám định số 3773/KLGĐ-H ngày 14/6/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Tp. Hồ Chí Minh).
Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Thanh S thừa nhận hành vi cất giấu 02 gói ma túy trên nhằm mục đích sử dụng. S khai khoảng tháng 5/2021, S có quen với một người bạn tên T làm bốc vác chung tại chợ Tân Bình. S biết T có sử dụng ma túy nên nhờ T mua giúp 200.000 đồng ma túy. Sau đó Tuấn chở Sơn đến chợ Q, Phường E, quận F gặp 01 người phụ nữ để mua ma túy. Khoảng 16 giờ ngày 05/6/2021, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên S điều khiển xe gắn máy từ nhà trọ đến khu vực chợ Q thì gặp lại người phụ nữ bán ma túy lần trước nên hỏi mua 500.000 đồng ma túy. Người phụ nữ đưa cho S 02 gói nylon bên trong có chứa ma túy và 01 nỏ thủy tinh. S cất giấu trong người và đang điều khiển xe quay về nhà trọ thì bị công an kiểm tra bắt giữ.
Vật chứng vụ án:
- 01 gói niêm phong, bên ngoài có đánh số 918/21 và chữ ký giám định viên Bùi Công D (ma túy còn lại sau giám định).
- 01 điện thoại di động hiệu Vivo màu đen đã vỡ màn hình, 01 ống hút nhựa, 01 nỏ thủy tinh thu giữ của S.
- 01 bình hút có gắn nỏ thủy tinh thu giữ tại phòng trọ của S.
- 01 xe gắn máy hiệu Honda Airblade, biển số 47E1-X thu giữ của S. Qua xác minh, xe do anh Nguyễn Ngọc A đứng tên đăng ký. Nguyễn Ngọc A trình bày mua xe trên vào năm 2018 làm phương tiện đi lại, khoảng 16 giờ ngày 05/6/2021, S có mượn xe của anh để đi mua thức ăn, anh không biết S dùng vào việc mua ma túy, phù hợp với lời khai của S. Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe này cho Nguyễn Ngọc A.
Đối với đối tượng tên T và người phụ nữ bán ma túy cho S như S khai, do không xác định được lai lịch nên không có cơ sở điều tra làm rõ.
Tại bản cáo trạng số 153/CT-VKS-TB ngày 10 tháng 11 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố bị cáo Nguyễn Thanh S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát đã trình bày luận tội, cụ thể: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa thông qua lời khai của bị cáo thì thì hành vi cất giấu trái phép 0,7723 gam ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine nhằm mục đích để sử dụng của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách của Nhà nước về độc quyền quản lý các chất ma túy, làm ảnh hưởng tới trật tự, trị an tại địa phương, bị cáo phạm tội do cố ý nên cần xử phạt bị cáo mức án phù hợp để có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung. Xét nhân thân bị cáo là xấu, bị cáo đã bị kết án nhưng không lấy làm bài học cho bản thân mà lại tiếp tục phạm tội. Tuy nhiên, xét thấy tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Từ căn cứ trên đề nghị áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51, điểm c khoản 1 Điều 249 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.
Về vật chứng vụ án:
- Đối với 01 gói niêm phong, bên ngoài có đánh số 918/21 và chữ ký giám định viên Bùi Công D (tang vật ma túy còn lại sau giám định) là vật Nhà nước cấm lưu hành nên đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu và tiêu hủy.
- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Vivo đã vỡ màn hình thu giữ của bị cáo, xét thấy đây là tài sản cá nhân của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên đề nghị Hội đồng xét xử trả lại cho bị cáo.
- Đối với 01 ống hút nhựa, 01 nỏ thủy tinh và 01 bình hút có gắn nỏ thủy tinh thu giữ của bị cáo, xét thấy đây là những vật không có giá trị nên đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu và tiêu hủy.
- Đối với 01 xe gắn máy hiệu Honda Airblade, biển số 47E1-X thu giữ của S. Qua xác minh, xe do anh Nguyễn Ngọc A đứng tên đăng ký. Anh Ngọc A trình bày mua xe trên vào năm 2018 làm phương tiện đi lại, khoảng 16 giờ ngày 05/6/2021, bị cáo có mượn xe của anh để đi mua thức ăn, anh không biết S dùng vào việc mua ma túy, phù hợp với lời khai của bị cáo. Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe này cho anh Ngọc A. Hiện không có ai thắc mắc, khiếu nại gì nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét lại.
Sau phần luận tội của Viện kiểm sát, bị cáo không tranh luận, tranh tụng với Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh của bị cáo để chiếu cố giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nhằm giúp cho bị cáo sửa chữa lỗi lầm của mình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Căn cứ vào hành vi phạm tội của bị cáo theo các tài liệu, chứng cứ được Công an quận Tân Bình lập, thì việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình ra quyết định tạm giữ, khởi tố vụ án, khởi tố bị can, ra quyết định tạm giam để phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử đối với bị cáo Nguyễn Thanh S về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 là có cơ sở, đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra, giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, thẩm tra các tài liệu, chứng cứ, luận tội, tranh tụng; nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[3] Căn cứ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa thông qua việc thẩm tra các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo, thì hành vi cất giữ trái phép 0,7723 gam ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân của bị cáo Nguyễn Thanh S là hành vi vi phạm pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý về chất ma túy của Nhà nước, làm ảnh hưởng tới trật tự, trị an tại địa phương, bị cáo là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, phạm tội do cố ý, nên đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 như cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố. Đồng thời qua phần phân tích, đánh giá, nhận định của đại diện Viện kiểm sát trong phần luận tội, nhận thấy những căn cứ Viện kiểm sát viện dẫn làm cơ sở chứng minh hành vi phạm tội để đề nghị truy tố, xử phạt bị cáo như đã nêu trên là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3] Mặc dù biết tác hại của ma túy, nhận thức được việc tàng trữ ma túy với mục đích sử dụng cho bản thân là hành vi vi phạm pháp luật, nhưng do muốn thỏa mãn và đáp ứng được nhu cầu của cá nhân mà bị cáo đã cố ý phạm tội, bị cáo có nhân thân xấu, do đó cần xét xử bị cáo mức án phù hợp để có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét thấy trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Việc đại diện Viện kiểm sát căn cứ tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, các tình tiết giảm nhẹ, nhân thân bị cáo để đề nghị áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51, điểm c khoản 1 Điều 249 và Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Về vật chứng vụ án:
- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Vivo đã vỡ màn hình thu giữ của bị cáo, xét thấy đây là tài sản cá nhân của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên Hội đồng xét xử trả lại cho bị cáo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.
- Đối với 01 gói niêm phong, bên ngoài có đánh số 918/21 và chữ ký giám định viên Bùi Công D (tang vật ma túy còn lại sau giám định) là vật Nhà nước cấm lưu hành nên Hội đồng xét xử tịch thu và tiêu hủy như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.
- Đối với 01 ống hút nhựa, 01 nỏ thủy tinh và 01 bình hút có gắn nỏ thủy tinh thu giữ của bị cáo, xét thấy đây là những vật không có giá trị nên Hội đồng xét xử tịch thu và tiêu hủy như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.
- Đối với 01 xe gắn máy hiệu Honda Airblade, biển số 47E1-X thu giữ của S. Qua xác minh, xe do anh Nguyễn Ngọc A đứng tên đăng ký. Anh Ngọc Anh trình bày mua xe trên vào năm 2018 làm phương tiện đi lại, khoảng 16 giờ ngày 05/6/2021, bị cáo có mượn xe của anh để đi mua thức ăn, anh không biết S dùng vào việc mua ma túy, phù hợp với lời khai của bị cáo. Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe này cho Nguyễn Ngọc A. Hiện không có ai thắc mắc, khiếu nại gì nên Hội đồng xét xử không xem xét lại như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.
[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a, c khoản 2 Điều 106, Điều 135 và Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Luật phí, lệ phí năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQHQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
[1] Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt: NGUYỄN THANH S 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Thời hạn tù tính từ ngày 05/6/2021.
[2] Về xử lý vật chứng:
- Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Vivo màu xanh đen đã vỡ màn hình (Tình trạng vật chứng theo như Phiếu nhập kho vật chứng số 126/PNK ngày 08/9/2021 của Công an quận Tân Bình).
- Tịch thu và tiêu hủy: 01 gói niêm phong, bên ngoài có đánh số 918/21 và chữ ký giám định viên Bùi Công D (tang vật ma túy còn lại sau giám định), 01 ống hút nhựa, 01 nỏ thủy tinh và 01 bình hút có gắn nỏ thủy tinh (Tình trạng vật chứng theo như Phiếu nhập kho vật chứng số 126/PNK ngày 08/9/2021 của Công an quận Tân Bình).
[3] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2014); Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2014). Hội đồng xét xử đã giải thích về quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án, thời hiệu yêu cầu thi hành án cho đương sự theo quy định tại Điều 26 Luật Thi hành án (đã sửa đổi, bổ sung năm 2014).
[4] Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày Tòa án tống đạt, niêm yết bản án hợp lệ.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 06/2022/HS-ST
Số hiệu: | 06/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/01/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về