Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 06/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH NHAI, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 06/2022/HS-ST NGÀY 13/12/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 12 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 06/2022/TLST - HS ngày 10 tháng 11 năm 2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2022/QĐXXST - HS ngày 29 tháng 11 năm 2022 đối với bị cáo.

1. Họ và tên: Trần Quốc C, tên gọi khác: Không; sinh ngày 10 tháng 3 năm 1976; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Tổ 8, phường Q, thành phố S, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Lao động tự do: Trình độ học vấn: 09/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Đảng phái, đoàn thể: Không; Con ông: Trần Thượng N và con bà Trần Thị U (đều đã chết); Bị cáo có 02 vợ (đều đã ly hôn) và có 01 con sinh năm 1998.

Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân:

Tại bản án số 20/HSST ngày 06/3/2002 bị Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xử phạt 08 năm tù giam về tội: Mua bán trái phép chất ma túy và 02 năm tù giam về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Tại bản án số 42/2012/HSST ngày 07/12/2012 bị Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xử phạt 36 tháng tù giam về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Tại bản án số 40/2018/HSST ngày 29/01/2018 bị Tòa án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La xử phạt 20 tháng tù giam về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy (đều đã được xóa án).

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09 tháng 8 năm 2022 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ, ngày 09/8/2022, Trần Quốc C đi bộ từ lán công trình C đang làm thuê thuộc địa phận bản C, xã M, huyện Q, tỉnh Sơn La về hướng trung tâm huyện Q tìm mua ma túy sử dụng cho bản thân. Tại khu vực đường Quốc lộ 279 C gặp một người đàn ông không biết tên, địa chỉ đang ở cạnh đường. C đã trao đổi và mua được của người đàn ông đó một gói ma túy với số tiền 50.000đ. Sau khi có được ma túy, C đi vào rừng cây cạnh đường trích ra một phần nhỏ ra sử dụng bằng hình thức đốt hít, phần còn lại C gói lại như cũ và dùng một mảnh nilon màu trắng gói thêm một lớp bên ngoài và cầm ở bên tay phải, sau đó đi bộ về lán công trình. Trên đường đi C bị phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng gồm: Chất cục bột màu trắng được gói bằng giấy bạc màu vàng, bên ngoài có một lớp nilon màu trắng.

Quá trình điều tra bị cáo Trần Quốc C đã khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Cùng ngày 09 tháng 8 năm 2022 cơ quan điều tra Công an huyện Quỳnh Nhai phối hợp với cơ quan chức năng tiến hành xét nghiệm ma túy đối với Trần Quốc C, kết quả: Trần Quốc C dương tính với chất ma túy.

Ngày 09/8/2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳnh Nhai thành lập hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh, lấy mẫu giám định vật chứng đối với chất cục bột màu trắng thu giữ của Trần Quốc C. Kết quả: Chất cục bột màu trắng có khối lượng là 0,12g. Lấy toàn bộ làm mẫu gửi giám định, ký hiệu A1.

Tại Kết luận giám định số: 1354 ngày 11/8/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu A1 là ma túy; loại Heroine. Khối lượng của mẫu gửi giám định là A1 0,12 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,12 gam, loại Heroine”. Mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định.

Bản cáo trạng số: 53/CT-VKS-QN ngày 10 tháng 11 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Nhai truy tố bị cáo Trần Quốc C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát huyện Quỳnh Nhai phát biểu luận tội giữ nguyên quyết định truy tố đối với Trần Quốc C về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự - Xử phạt bị cáo Trần Quốc C 14 tháng đến 18 tháng tù;

Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam (Ngày 09/8/2022) Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS đề nghị HĐXX tuyên tiêu hủy: + 01 phong bì công văn của Công an huyện Quỳnh Nhai được niêm phong dán kín, mặt trước phong bì ghi: Vật chứng lưu kho vụ Trần Quốc C, tàng trữ trái phép chất ma túy gồm: 01 mảnh nilon màu trắng + 01 mảnh giấy bạc màu vàng + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở. Mặt sau tại mép dán giấy giáp lai phong bì có đầy đủ chữ ký, họ tên của các thành phần tham gia và chữ ký, họ tên người bị bắt Trần Quốc C, cùng hai dấu tròn đỏ của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳnh Nhai.

Về án phí: Đề nghị HĐXX căn khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án - Buộc bị cáo Trần Quốc C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đ (Hai trăm nghìn đồng);

Lời nói sau cùng, bị cáo thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các tài liệu và chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà. Trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Quỳnh Nhai, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Nhai, Điều tra viên Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đều có lời khai nhận tội thống nhất, phù hợp với kết quả điều tra như : Biên bản bắt người phạm tội quả tang được lập hồi 18 giờ 05 phút, ngày 09/8/2022 tại khu vực đường Quốc lộ 279 thuộc địa phận bản C, xã M, huyện Q, tỉnh Sơn La đối với Trần Quốc C cùng vật chứng thu giữ là 0,12 gam chất cục bột màu trắng, kết luận là Heroine. Đồng thời phù hợp với lời khai của Lù Văn O người đã chứng kiến Cơ quan điều tra bắt quả tang đối với bị cáo Trần Quốc C.

[3] Với các căn cứ chứng minh trên đã có đủ cơ sở kết luận: Ngày 09 tháng 8 năm 2022 bị cáo Trần Quốc C đã có hành vi cất giữ bất hợp pháp 0,12 gam ma túy, là chất Heroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, đã trực tiếp xâm hại đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Khi thực hiện hành vi cất giữ trái phép chất ma túy bị cáo đã thành niên, có đủ khả năng nhận thức cũng như điều khiển hành vi. Bản thân bị cáo nhận thức rõ việc tàng trữ, sử dụng ma túy là vi phạm pháp luật nhưng do nhu cầu của bản thân nên bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội đến cùng, phạm tội với lỗi cố ý. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Điều luật quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

....

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Trần Quốc C không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhưng nhân thân xấu, đã từng 03 lần bị kết án về tội mua bán trái phép chất ma túy và tàng trữ trái phép chất ma túy (đều đã được xóa án), nên chỉ bị xét xử ở khoản 1 Điều 249 BLHS.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà. Bị cáo Trần Quốc C đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có con gái (sau khi ly hôn con gái ở với bố) bị thiểu năng trí tuệ, không tự chăm sóc cho bản thân, sống hoàn toàn phụ thuộc vào người khác. Do vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng. Sau khi xem xét, đánh giá tính chất và mức độ hành vi phạm tội cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đối chiếu với các quy định pháp luật, Hội đồng xét xử thấy cần thiết xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, đảm bảo biện pháp cải tạo, giáo dục riêng, phòng ngừa tội phạm chung.

[7] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền) theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự: Xét thấy, hoàn cảnh kinh tế gia đình bị cáo khó khăn, là đối tượng nghiện ma túy, nghề nghiệp không ổn định, thu nhập thấp, không có tài sản giá trị lớn, nên không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

[8] Về vật chứng vụ án:

01 phong bì công văn của Công an huyện Quỳnh Nhai được niêm phong dán kín, mặt trước phong bì ghi: Vật chứng lưu kho vụ Trần Quốc Cường, tàng trữ trái phép chất ma túy gồm: 01 mảnh nilon màu trắng + 01 mảnh giấy bạc màu vàng + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở. Mặt sau tại mép giáp lai phong bì được dán đè giấy niêm phong số 005861 của Công an tỉnh Sơn La, trên giấy niêm phong có đầy đủ chữ ký, họ tên của các thành phần tham gia niêm phong, cùng hai dấu tròn đỏ của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳnh Nhai. Hội đồng xét xử xét thấy đây là vật chứng không có giá trị sử dụng, căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS tịch thu tiêu hủy.

[9] Về các vấn đề khác:

Về nguồn gốc 0,12 gam Heroine, bị cáo Trần Quốc C khai nhận mua của một người đàn ông không quen biết tại khu vực đường thuộc bản C, xã M, tỉnh Sơn La vào ngày 09/8/2022 với số tiền 50.000đ (Năm mươi nghìn đồng). Qúa trình điều tra xác định C không biết họ tên, địa chỉ cụ thể của người đàn ông đó, việc mua bán không có ai chứng kiến và tham gia cùng. Do vậy Cơ quan điều tra không có đủ căn cứ điều tra, xử lý.

[10] Về án phí:

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án - Buộc bị cáo Trần Quốc C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đ (Hai trăm nghìn đồng);

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Điều 38 BLHS.

Tuyên bố bị cáo Trần Quốc C phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Xử phạt Trần Quốc C 14 (Mười bốn) tháng. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 09/8/2022).

- Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo Trần Quốc C 2. Vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy:

01 phong bì công văn của Công an huyện Quỳnh Nhai được niêm phong dán kín, mặt trước phong bì ghi: Vật chứng lưu kho vụ Trần Quốc C, tàng trữ trái phép chất ma túy gồm: 01 mảnh nilon màu trắng + 01 mảnh giấy bạc màu vàng + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở. Mặt sau tại mép giáp lai phong bì được dán đè giấy niêm phong số 005861 của Công an tỉnh Sơn La, trên giấy niêm phong có đầy đủ chữ ký, họ tên của các thành phần tham gia niêm phong, cùng hai dấu tròn đỏ của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳnh Nhai (Theo biên bản giao nhận vật chứng số 07/2022 ngày 14/11/2022 giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La) 

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án - Bị cáo Trần Quốc C phải nộp phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đ (Hai trăm nghìn đồng) 4. Quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm ngày 13/12/2022.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

23
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 06/2022/HS-ST

Số hiệu:06/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Nhai - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về