Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 06/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 06/2022/HS-PT NGÀY 29/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh S xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 12/2022/TLPT-HS ngày 11 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo Lò Văn L do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 39/2021/HS-ST ngày 29 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố S, tỉnh Sơn La.

- Bị cáo có kháng cáo:

Lò Văn L, sinh ngày 15 tháng 4 năm 1995 tại huyện M, tỉnh Đ; nơi ĐKNKTT: Bản N, xã T, huyện M, tỉnh Đ; chỗ ở hiện nay: Tổ 02, phường Q, thành phố S, tỉnh S; nghề nghiệp: Sinh viên; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lò Văn S và bà Lò Thị N; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/8/2021 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- Bị cáo không kháng cáo, không bị kháng nghị: Lò Văn V, sinh ngày 06 tháng 8 năm 2000; nơi ĐKNKTT: Bản H, xã C, huyện Q, tỉnh S, Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 23 giờ 40 phút ngày 28/8/2021, tổ công tác Công an xã C, thành phố S làm nhiệm vụ tại khu vực đường dân sinh (thuộc bản D, xã C, thành phố S) phát hiện và bắt quả tang Lò Văn L, Lò Văn V đang có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ: 01 gói giấy bạc, bên trong có 02 viên nén đồng dạng hình tròn màu hồng (Lò Văn L tự giác lấy từ trong túi quần ra giao nộp, khai nhận là hồng phiến cất giấu để sử dụng).

Ngày 29/8/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La đã thành lập Hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh và lấy mẫu gửi giám định, kết quả: 02 viên nén đồng dạng hình tròn màu hồng có tổng khối lượng là 0,19 gam, kết quả giám định là ma túy, loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra bị cáo khai nhận: Khoảng 23 giờ 35 phút ngày 28/8/2021, Lò Văn L đang đi bộ tại khu vực cổng chào bản D, xã C, thành phố S thì gặp Lò Văn V điều khiển xe mô tô đi qua, L gọi V dừng xe lại và rủ V đi mua ma túy để cùng sử dụng, V nói hiện tại V chưa có tiền nên L bảo dùng điện thoại của L đưa cho người bán ma túy để lấy ma túy trước, V hẹn đến ngày 03/9/2021 sẽ trả L số tiền 100.000đ (một trăm nghìn đồng). Sau khi thống nhất, V điều khiển xe chở L đến một khu xóm trọ thì gặp một nam thanh niên tên là C (L không biết họ, tên đệm, địa chỉ), L hỏi C có ma túy bán không thì C nói có, L đặt vấn đề muốn để lại điện thoại lấy hai viên hồng phiến với giá 200.000đ (hai trăm nghìn đồng)”, C đồng ý và cầm điện thoại của L đưa, rồi đưa lại cho L 01 gói giấy bạc bên trong có 02 viên hồng phiến. L cất gói ma túy vừa mua được vào túi quần bên phải phía trước đang mặc rồi quay lại chỗ V đang đợi để cùng nhau đi tìm nơi sử dụng ma túy thì bị tổ công tác Công an xã Chiềng Ngần phát hiện, bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng nêu trên.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 39/2021/HS-ST ngày 29 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố S đã quyết định:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Lò Văn L, Lò Văn V phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Lò Văn L 15 (mười lăm) tháng tù.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Lò Văn V 14 (mười bốn) tháng tù.

Thời hạn tù của các bị cáo tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 29/8/2021). Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Ngoài ra bản án còn quyết định về vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 29 tháng 12 năm 2021, bị cáo Lò Văn L có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La phát biểu quan điểm về kháng cáo của bị cáo Lò Văn L: Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử các bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, không oan sai; tại cấp phúc thẩm, bị cáo không xuất trình được các chứng cứ mới nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt của bị cáo. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên mức hình phạt của bản án sơ thẩm.

* Bị cáo cho rằng mức phạt 15 tháng tù đối với bị cáo là nặng nên bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Ngày 28/8/2021, Lò Văn L cùng Lò Văn V đã có hành vi mua, cất giữ trái phép 0,19 gam Methamphetamine, mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang tại khu vực bản D, xã C, thành phố S. Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử các bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, không oan sai.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo Lò Văn L xin giảm nhẹ hình phạt, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định: Các bị cáo Lò Văn L và Lò Văn V cùng thực hiện hành vi mua, cất giữ trái phép chất ma túy với khối lượng không lớn (0,19 gam), mục đích để sử dụng. Hành vi phạm tội của các bị cáo thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn - vì mục đích để thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy của bản thân, các bị cáo cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội; các bị cáo đều không có tiền án, tiền sự, không có tình tiết tăng nặng, có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thành khẩn khai báo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do đó, chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Lò Văn L, sửa bản án sơ thẩm - giảm hình phạt cho bị cáo tương đương với mức hình phạt của bị cáo Lò Văn V là phù hợp và có căn cứ theo quy định tại Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự và điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[4] Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo Lò Văn L không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự - Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lò Văn L, sửa bản án hình sự sơ thẩm số: 39/2021/HS-ST ngày 29 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La như sau:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự:

1. Tuyên bố các bị cáo Lò Văn L, Lò Văn V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Hình phạt:

- Xử phạt bị cáo Lò Văn L 14 (mười bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 29/8/2021).

- Xử phạt bị cáo Lò Văn V 14 (mười bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 29/8/2021).

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Về án phí: Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Bị cáo Lò Văn L không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án (ngày 29/3/2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

136
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 06/2022/HS-PT

Số hiệu:06/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về