Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 04/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Đ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 04/2024/HS-ST NGÀY 28/10/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28/10/2024 tại trụ sở Toà án nhân dân Thành Phố Đ, tỉnh Điện Biên xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 04/2024/HSST ngày 03/10/2024 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2024/QĐXX-HS ngày 17/10/2024 đối với bị cáo:

Họ và tên: LườngVăn P. Bị cáo không có tên gọi khác:

Sinh năm 1979. Tại tỉnh Điện Biên Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản N, xã N, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên. Dân tộc:

Thái; Quốc tịch: Việt Nam. Tôn giáo: Không.

Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hoá: 4/12 ; Con ông: Lương Văn H (đã chết) con bà: Lò Thị M; Gia đình bị cáo có 5 anh em, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình. Bị cáo có vợ: Lò Thị N có 3 con; Tiền sự: Không. Tiền án: Không; Nhân thân: Chưa bị xử phạt hành chính, chưa bị Tòa án nào xét xử.

Bị cáo bị bắt tạm giữ trong vụ án này ngày 17/6/2024, bị cáo có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 17/6/2024, Phương đi bộ từ nhà đến đường dân sinh thuộc bản N, xã N, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên thì gặp và mua của 01 người đàn ông không quen biết được 01 gói Heroine có khối lượng 0,15 gam với giá 50.000đ gói bên ngoài bằng mảnh nilon màu hồng, với mục đích để sử dụng. Sau khi mua được ma túy P cầm trong lòng bàn tay trái rồi về nhà. Hồi 13 giờ 50 phút ngày 17/6/2024, khi P đang đi trên đường thì bị tổ công tác Công an thành phố Đ làm nhiệm vụ tại bản N, xã N, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng ngày 17/6/2024 đã xác định: Các cục bột thể rắn màu trắng đục nghi Heroine thu giữ khi bắt quả tang của Lường Văn P có khối lượng là 0,15 gam (ký hiệu H) gửi toàn bộ giám định.

Tại bản kết luận giám định số 1057/KL-KTHS ngày 23/6/2024 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ đã kết luận: Mẫu các cục bột màu trắng ký hiệu H thu giữ của Lường Văn P gửi giám định là chất ma túy loại Heroine. Hoàn lại đối tượng giám định 0,08gam.

Tại bản cáo trạng số 166/CT-VKSTPĐBP ngày 03/10/2024, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ đã truy tố bị cáo Lường Văn P về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện VKSND thành phố Đ vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Lường Văn P về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249/BLHS; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38/BLHS.

Xử phạt bị cáo từ 13 tháng đến 16 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng Điểm a, c Khoản 1 Điều 47/BLHS năm 2015; Điểm a, c Khoản 2 Điều 106/BLTTHS năm 2015 về xử lý vật chứng.

Căn cứ Khoản 2 Điều 136/ BLTTHS năm 2015 và Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí lệ phí Tòa án. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo cũng hoàn toàn nhất trí với quan điểm truy tố và luận tội của VKSND thành phố Đ không có ý kiến tranh luận, lời nói sau cùng của bị cáo: Ngoài xin giảm nhẹ hình phạt không có ý kiến gì khác.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Xét hành vi phạm tội của bị cáo thấy rằng: Hồi 13 giờ 50 phút ngày 17/6/2024 tại khu vực bản N, xã N, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên, Lường Văn P đã có hành vi cất giấu trái phép trên người 0,15 gam Heroine trên người mục đích để sử dụng cho bản thân. Nguồn gốc số ma túy có được là do mua của một người đàn ông không biết tên trên đường dân sinh thuộc bản N, xã Nà T với giá 50.000đ sau khi mua ma túy được P đem về chưa kịp sử dụng thì bị bắt quả tang.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã hoàn thành và được thực hiện bằng lỗi cố ý trực tiếp. Vật chứng thu giữ của bị cáo đã được cân xác định khối lượng là 0,15 gam, kết luận giám định là chất ma túy loại Heroine. Lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng; Kết luận giám định; Kết luận điều tra, các bản cung có trong hồ sơ vụ án cũng như cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo. Từ những chứng cứ nêu trên đủ cơ sở kết luận: Hành vi tàng trữ 0,15 gam Heroine trên người mục đích để sử dụng của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249/BLHS.

C¸o tr¹ng cña VKSND thành phố Đ ®· truy tè bÞ c¸o lµ ®óng ng•êi, ®óng téi, ®óng ph¸p luËt. BÞ c¸o cã ®Çy đủ n¨ng lùc ®Ó chÞu tr¸ch nhiÖm h×nh sù tr•íc ph¸p luËt vÒ hµnh vi ph¹m téi cña m×nh ®· g©y ra.

[2]. XÐt tÝnh chÊt møc ®é ph¹m téi cña bÞ c¸o th× hµnh vi tàng trữ tr¸i phÐp chÊt ma túy lµ hµnh vi nguy hiÓm cho x· héi, tội phạm mà bị cáo thực hiện thuộc trường hợp nghiêm trọng lµm ¶nh h•ëng ®Õn trËt tù trÞ an, an toàn x· héi. Hµnh vi ph¹m téi cña bÞ c¸o ®· x©m ph¹m ®Õn chÝnh s¸ch ®éc quyÒn qu¶n lý cña Nhµ n•íc vÒ chÊt ma tuý. BÞ c¸o nhËn thøc ®•îc t¸c h¹i cña ma tuý, nhËn thøc ®•îc hµnh vi tàng trữ tr¸i phÐp chÊt ma tuý lµ vi ph¹m ph¸p luËt. Song vì nhu cầu của bản thân bÞ c¸o ®· bÊt chÊp vµ cè t×nh vi ph¹m. Nªn cÇn ph¶i xö lý bị cáo nghiêm minh theo quy ®Þnh cña ph¸p luËt.

[3]. Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Lường Văn P HĐXX thấy rằng: Sinh ra và lớn lên tại xã N, thành phố Đ bản thân học hết lớp 4. Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS. Xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy cần phải áp dụng hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội để bị cáo tiếp tục cai nghiện cải sửa lỗi lầm trở thành người công dân tốt cho gia đình và xã hội. Xét đề nghị của VKS là phù hợp HĐXX chấp nhận.

[4]. Ngoài hình phạt chính là phạt tù thì bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249/BLHS là phạt tiền từ 05 triệu đồng đến 500 triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. XÐt kinh tÕ bÞ c¸o khã kh¨n, bản thân lại nghiện chất ma tuý. Nªn kh«ng cã ®iÒu kiÖn ®Ó thi hµnh. Héi ®ång xÐt xö kh«ng ¸p dông h×nh ph¹t bæ sung ®èi víi bÞ c¸o.

Đối với người đàn ông bị cáo đã gặp tại đường dân sinh bản N, xã N đã bán ma túy cho bị cáo, do không đủ căn cứ nên cơ quan điều tra không xác minh làm rõ được. HĐXX không xem xét.

[5]. Về hành vi và các Quyết định của cơ quan người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, Điều tra viên, kiểm sát viên. Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục đảm bảo theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại gì do đó các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng là hợp pháp được chấp nhận.

[6]. Vật chứng của vụ án cần áp dụng Điểm a, c khoản 1 Điều 47/BLHS;

Điểm a, c Khoản 2 Điều 106/BLTTHS về xử lý vật chứng.

Tịch thu tiêu huỷ H: 0,08 gam Heroine được hoàn lại sau giám định; 01 mảnh nilon màu hồng.

[7].Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS năm 2015 và Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 về án phí lệ phí Tòa án bị cáo Lường Văn P phải chịu 200.000đ án phí HSST Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38/ BLHS; Điều 331, Điều 333/BLTTHS;

1. Tuyên bố: Bị cáo Lường Văn P phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

2. Xử phạt bị cáo Lường Văn P 01 (một ) năm 01 (một ) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ (ngày 17/6/2024)

3. Vật chứng: Căn cứ: Điểm a, c Khoản 1 Điều 47/BLHS; Điểm a, c Khoản 2 Điều 106/BLTTHS.

Tịch thu tiêu huỷ H: 0,08 gam Heroine được hoàn lại sau giám định; 01 mảnh nilon màu hồng. (Vật chứng đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ chuyển cho Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đ phủ vào ngày 04/10/2024 đặc điểm vật chứng mô tả theo biên bản giao nhận).

4. Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS năm 2015 và Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 về án phí lệ phí Tòa án bị cáo Lường Văn P phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

5. Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 28/10/2024).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

36
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 04/2024/HS-ST

Số hiệu:04/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:28/10/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về