TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN SƠN, TỈNH TUYÊN QUANG
BẢN ÁN 04/2024/HS-ST NGÀY 06/02/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 06 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện S xét xử sơ thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự thụ lý số 04/2024/TLST-HS, ngày 12 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2024/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo:
Phạm Văn N; (Tên gọi khác: Không), sinh ngày 08 tháng 01 năm 1986, tại tỉnh T;
Nơi ĐKHKTT, chỗ ở: Thôn T, xã B, huyện H, tỉnh T.
Nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; trình độ học vấn: 12/12; con ông Phạm Đức L (đã chết) và con bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1957; Vợ, con: Chưa có; Anh, chị, em ruột: Có 04 người, bị cáo là con thứ ba.
Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân:
+ Ngày 29/3/2010, Công an huyện H xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh nhau (Quyết định số 76/QĐ-XPHC, chấp hành xong ngày 30/3/2010);
+ Ngày 27/8/2013, Công an huyện H xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Cố ý gây thương tích (Quyết định số 197/QĐ-XPHC, chưa nộp phạt);
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/10/2023, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh T, (có mặt).
Điểm cầu trung tâm gồm: Hội đồng xét xử; Kiểm sát viên; Thư ký phiên tòa. Điểm cầu Trại tạm giam Công an tỉnh gồm:
- Bị cáo Phạm Văn N.
- Cán bộ Đội Thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp Công an huyện S.
- Kỹ thuật viên: Ông Vũ Trung H - Cán bộ Tòa án nhân dân huyện S.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 06 giờ ngày 04/10/2023, Phạm Văn N, sinh năm 1986, trú tại thôn T, xã B, huyện H, tỉnh T, đón xe ôtô Buýt (chạy tuyển Chiêm Hóa - T) đến xã T, huyện S, tỉnh T, mục đích tìm mua ma tuý (loại Heroine) về sử dụng. Khi đến điểm đón, trả khách trước cổng trường Đại học Tân trào, N xuống xe Buýt và đi bộ trên đường và gặp một người đàn ông làm nghề lái xe ôm (không biết tên, tuổi, địa chỉ), N nhờ người đàn ông đó mua hộ 300.000 đồng Heroine, người đàn ông đó đồng ý và bảo N “lên xe”, N ngồi lên xe mô tô cùng người đó đi đến khu vực Km10 đường T – Hà Giang thì dừng xe, bảo N xuống xe đứng chờ, N lấy trong túi quần đang mặc ra 300.000 đồng đưa cho người đàn ông đó, người đó cầm tiền đi đâu khoảng 10 phút sau quay lại đưa cho N 01 gói nhỏ bên ngoài được gói bằng giấy bạc màu vàng, bên trong chứa chất bột vón cục màu trắng, N xác định đó là Heroine nên cầm trong lòng bàn tay trái rồi đi bộ tìm hiệu thuốc mua nước cất, xilanh để sử dụng gói ma tuý, khoảng 11 giờ cùng ngày, khi N đi bộ đến tổ dân phố Nghĩa Trung, thị trấn Y, huyện S (chưa mua được nước cất, xilanh) thì bị Tổ công tác Công an thị trấn S nghi vấn kiểm tra, biết không thể che dấu được hành vi phạm tội của mình N đã tự giác giao nộp gói ma tuý đang cầm trong lòng bàn tay cho Tổ công tác và khai nhận hành vi phạm tội của mình. Hồi 11 giờ 30 phút cùng ngày, Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong gói ma tuý theo quy định.
Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy đối với Phạm Văn N, kết quả (+) dương tính (có chất ma túy trong cơ thể). N khai nhận, ngày 02/10/2023 đã mua 100.000 đồng ma tuý của một người đàn ông (không biết tên, địa chỉ) ở khu vực Km31, thuộc xã Thái Sơn, huyện H, tỉnh T và sử dụng hết bằng hình thức tiêm chích vào cơ thể.
Kết luận giám định số 1325/KL-KTHS ngày 09/10/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T: gói chất bột vón cục màu trắng thu giữ của Phạm Văn Ngửi giám định là chất ma tuý; loại Heroine, có tên khoa học là Diacetylmorphine, được quy định tại Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma tuý và tiền chất; khối lượng 0,137g (Không phẩy một ba bảy gam).
Cáo trạng số 04/CT-VKSYS, ngày 11/01/2024, Viện kiểm sát nhân dân huyện S, tỉnh T đã truy tố bị cáo Phạm Văn N về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố đối với Phạm Văn N theo tội danh và điều luật đã nêu trong cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự;
Xử phạt: Bị cáo Phạm Văn N từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm gữ, tạm giam (ngày 04/10/2023).
Về hình phạt bổ sung: Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy 0,087g (không phẩy không tám bảy gam) Heroine còn lại sau khi lấy mẫu giám định đựng trong 01 (một) bì niêm phong còn nguyên vẹn các mép dán kín, bên ngoài mặt trước bì niêm phong ghi chữ "Tang vật vụ Phạm Văn N, giám định ngày 04/10/2023" mặt sau trên các mép dán có chữ ký giáp lai của Phạm Văn N, thành phần tham gia niêm phong và 05 (Năm) hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T.
Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Tại phần tranh luận bị cáo không tranh luận với luận tội của Kiểm sát viên, nói lời sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất để sớm trở về gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, bị cáo thừa nhận do là người nghiện ma túy, nên ngày 04/10/2023 bị cáo đã đi mua ma túy về để sử dụng thì bị bắt quả tang đang tàng trữ trái phép chất ma túy.
Ngoài lời khai nhận tội của bị cáo, hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng biên bản bắt người phạm tội quả tang; vật chứng thu giữ; kết luận giám định cùng toàn bộ những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Từ những chứng cứ trên đây đã có đủ cơ sở kết luận: Hồi 11 giờ ngày 04/10/2023, tại khu vực tổ dân phố N, thị trấn Y, huyện S, tỉnh T bị cáo Phạm Văn N đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,137g (Không phẩy một ba bẩy gam) Heroine, với mục đích để sử dụng cho bản thân.
Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện S, tỉnh T truy tố bị cáo Phạm Văn N về hành vi“Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội.
[2] Xét về tính chất hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma tuý, gây mất trật tự trị an tại địa phương và gây sự bất bình trong quần chúng nhân dân và là một trong những nguyên nhân gây ra các tội phạm khác. Bị cáo có nhân thân xấu, ngày 29/3/2010, Công an huyện H xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh nhau (Quyết định số 76/QĐ-XPHC, chấp hành xong ngày 30/3/2010); Ngày 27/8/2013, Công an huyện H xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Cố ý gây thương tích (Quyết định số 197/QĐ-XPHC, chưa nộp phạt). Vì vậy cần phải có mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để răn đe, giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời phòng ngừa tội phạm chung.
Hội đồng xét xử thấy rằng quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cần áp dụng cho bị cáo để quyết định mức án cho phù hợp.
[3] Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có tài sản có giá trị và phạm tội không vì mục đích vụ lợi, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.
[4] Về vật chứng: Đối với số ma túy loại Heroine thu giữ của bị cáo là 0,137g (không phẩy một ba bảy gam) đã làm mẫu giám định 0,05g (không phẩy không năm gam), số còn lại là 0,087g (Không phẩy tám bảy gam) là tang vật của vụ án thuộc danh mục Nhà nước cấm sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
[5] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo vào ngày 04/102023: Công an huyện S đã ra quyết định xử phạt hành chính số 105 ngày 11/10/2023, hình thức phạt: Cảnh cáo nên Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.
[6] Đối với 02 người đàn ông bán trái phép chất ma túy cho bị cáo vào ngày 02/10/2023 tại khu vực km31, xã T, huyện H, tỉnh T và ngày 04/10/2023 tại khu vực km10 đường T đi Hà Giang: Cơ quan CSĐT Công an huyện S đã áp dụng các biện pháp điều tra theo quy định, nhưng không xác định được tên, tuổi, địa chỉ nên không có căn cứ xem xét, xử lý trong vụ án nên Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.
[7] Về tố tụng: Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, của Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
1. Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự
- Xử phạt: Bị cáo Phạm Văn N 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 04/10/2023).
2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu hủy 0,087g (không phẩy không tám bảy gam) Heroine còn lại sau khi lấy mẫu giám định đựng trong 01 (một) bì niêm phong còn nguyên vẹn các mép dán kín, bên ngoài mặt trước bì niêm phong ghi chữ "Tang vật vụ Phạm Văn N, giám định ngày 04/10/2023" mặt sau trên các mép dán có chữ ký giáp lai của Phạm Văn N, thành phần tham gia niêm phong và 05 (Năm) hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T.
Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/01/2024 giữa Công an huyện S, tỉnh T và Chi cục Thi hành án dân sự huyện S, tỉnh T.
3. Áp dụng Điều 136, 331, 332, 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:
Bị cáo Phạm Văn N phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 04/2024/HS-ST
Số hiệu: | 04/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Sơn - Tuyên Quang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/02/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về