Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 04/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 04/2023/HS-ST NGÀY 10/01/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10/01/2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lY số 117/2022/HSST ngày 23/12/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 121/2022/QĐXXST-HS ngày 29/12/2022 đối với:

- Bị cáo: Ngô Văn Y, sinh năm 1973, tại huyện Y, tỉnh N; nơi cư trú: thôn Q, xã Y, huyện Y, tỉnh N; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Văn H (đã chết) và bà Đinh Thị T1; có vợ Nguyễn Thị L và có 03 con: con lớn nhất sinh năm 1998, con nhỏ nhất 2007; tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 14/9/2022, chuyển tạm giam ngày 22/9/2022 tại Trại tạm giam Công an tỉnh N cho đến nay (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: chị Ngô Thị T, sinh năm 1977; nơi cư trú: xóm Thượng, xã Y, huyện Y, tỉnh N (vắng mặt).

- Người chứng kiến: anh Phạm Mạnh H (vắng mặt).

- Người làm chứng: anh Nguyễn Văn K (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngô Văn Y là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy. Khoảng 13 giờ 15 phút ngày 14/9/2022, bị cáo điều khiển xe môtô BKS 29T1-xxxx từ nhà đến khu vực Bến xe khách huyện K thuộc phố K, thị trấn P, huyện K, tỉnh N tìm mua ma túy và mua được 01 gói ma túy gói ngoài bằng giấy màu xanh với giá 200.000 đồng của một thanh niên khoảng 30 tuổi. Sau đó, bị cáo cầm gói ma túy và điều khiển xe đi tìm nơi sử dụng. Đến khoảng 14 giờ 10 phút cùng ngày, khi đến quán cà phê vườn (cà phê câu cá) thuộc phố Phú Vinh, thị trấn P, huyện K, tỉnh N, bị cáo dừng xe định mở gói ma túy ra xem thì bị Tổ công tác Công an thị trấn P và Phòng Cảnh sát ma túy Công an tỉnh N phát hiện bắt quả tang, thu giữ của bị cáo 01 gói ma túy mà bị cáo vừa mua; 01 xe môtô nhãn hiệu Suzuki Best màu đỏ, BKS 29T1-xxxx.

Tiến hành mở niêm phong gói nhỏ thu giữ của Y được gói ngoài là giấy màu xanh bên trong là chất bột dạng cục màu trắng có khối lượng 0,1337 gam (kY hiệu M), để trưng cầu giám định.

Tại kết luận giám định số 681/KL-KTHS-MT ngày 20/9/2022 của phòng KTHS - Công an tỉnh N kết luận: Mẫu chất bột dạng cục màu trắng gửi giám định kí hiệu M có khối lượng 0,1337 gam là ma túy, loại Heroine.

Bản Cáo trạng số 06/CT-VKS ngày 21/12/2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố bị cáo Ngô Văn Y về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát huyện K vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố như nội dung cáo trạng và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Ngô Văn Y phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Ngô Văn Y từ 12 đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 14/9/2022.

Về xử lY vật chứng: áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong sau giám định bên trong có 0,097 gam ma túy loại Heroine cùng toàn bộ vỏ bao gói niêm phong, ký hiệu 681/KL-KTHS-MT; 01 phong bì niêm phong bên trong có 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu khi thu giữ gói nhỏ của Y ký hiệu Q1; 01 mảnh giấy màu xanh mặt sau có in chữ màu đen, ký hiệu B.

Về án phí: áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận đã thực hiện toàn bộ hành vi nêu trên và không có Y kiến gì khác, không tranh luận với luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm một phần hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, tội danh và điều luật áp dụng: tại phiên tòa bị cáo khai nhận do có nhu cầu sử dụng ma túy nên khoảng 13 giờ 15 phút ngày 14/9/2022, bị cáo điều khiển xe môtô từ nhà đến khu vực Bến xe khách huyện K thuộc phố K, thị trấn P, huyện K, tỉnh N tìm mua ma túy và mua được 01 gói ma túy gói ngoài bằng giấy màu xanh với giá 200.000 đồng. Sau đó, bị cáo cầm gói ma túy và điều khiển xe đi tìm nơi sử dụng. Đến khoảng 14 giờ 10 phút cùng ngày, khi đến quán cà phê vườn (cà phê câu cá) thuộc phố P, thị trấn P, huyện K, tỉnh N, bị cáo dừng xe định mở gói ma túy ra xem thì bị Tổ công tác Công an thị trấn P và Phòng Cảnh sát ma túy Công an tỉnh N phát hiện bắt quả tang, thu giữ của bị cáo 01 gói ma túy mà bị cáo vừa mua; 01 xe môtô nhãn hiệu Suzuki Best màu đỏ, BKS 29T1- xxxx. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng, Biên bản cân xác định khối lượng, Kết luận giám định gói bột thu giữ của bị cáo và lời khai của người làm chứng đã có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép 0,1337gam ma túy, loại Heroine để sử dụng cho bản thân là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm vào chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất gây nghiện, nhưng vẫn cố Y thực hiện, hành vi đó gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự ở địa phương. Do đó, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm :

c, Heroine, Cocaine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.

Từ sự phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định bị cáo Ngô Văn Y đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự như đã được viện dẫn. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về nhân thân: bị cáo không có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết tăng nặng: không có.

Về tình tiết giảm nhẹ: quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.

Hội đồng xét xử xét thấy, sau khi đối chiếu về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cũng như nguyên nhân và điều kiện phạm tội của bị cáo, thì hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng cần phải xử lý nghiêm minh trước pháp luật bằng hình thức cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[3] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo không có tài sản riêng, hành vi phạm tội của bị cáo chỉ nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu cá nhân, không mang tính chất vụ lợi. Vì vậy, không áp dụng hình phạt bổ sung, phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về nguồn gốc số ma túy loại Heroine: bị cáo khai mua của một người đàn ông không quen biết khoảng 30 tuổi ở khu vực Bến xe khách huyện K thuộc phố K, thị trấn P, huyện K, bị cáo không quen biết người đó, có gặp lại cũng không nhận dạng được. Vì vậy, cơ quan điều tra Công an huyện K không đủ cơ sở để điều tra.

[5] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

Đối với 01 xe môtô nhãn hiệu Suzuki Best màu đỏ, BKS 29T1-xxxx. Quá trình điều tra xác định chiếc xe nói trên thuộc quyền sở hữu của chị Ngô Thị T, sinh năm 1977; trú tại: thôn Thượng, xã Y, huyện Y, tỉnh N (em gái bị cáo). Chị T mua chiếc xe này của một người phụ nữ không quen biết tại Hà Nội khoảng hơn 10 năm, quá trình sử dụng chị đã làm mất giấy tờ xe, cơ quan điều tra đã tra cứu nhưng không có dữ liệu. Vì vậy, Cơ quan điều tra đã tách phần tài liệu liên quan đến chiếc xe này để tiếp tục điều tra, xác minh và xử lý sau là đúng quy định của pháp luật.

Đối với 01 phong bì niêm phong ghi số 681/KL-KTHS-MT ngày 20/9/2022 bên trong có vật chứng còn lại sau giám định M = 0,097 gam ma túy loại Heroine và toàn bộ vỏ giấy gói trong gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên trong có 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu khi thu giữ gói nhỏ của bị cáo kY hiệu Q1; 01 mảnh giấy màu xanh mặt sau có in chữ màu đen, ký hiệu B. Đây là vật cấm lưu hành và không còn giá trị sử dụng cần tịch thu cho tiêu hủy.

[6] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[7] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sựNghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: bị cáo Ngô Văn Y phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt bị cáo Ngô Văn Y 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ bị cáo là ngày 14/9/2022.

2. Về xử lý vật chứng: tịch thu cho tiêu hủy 01 phong bì niêm phong ghi số 681/KL-KTHS-MT ngày 20/9/2022 bên trong có vật chứng còn lại sau giám định M = 0,097 gam ma túy loại Heroine và toàn bộ vỏ giấy gói trong gói niêm phong ban đầu;

01 phong bì niêm phong bên trong có 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu khi thu giữ gói nhỏ của bị cáo ký hiệu Q1; 01 mảnh giấy màu xanh mặt sau có in chữ màu đen, kY hiệu B.

(Chi tiết vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 23/12/2022 giữa cơ quan CSĐT công an huyện K với Chi cục THADS huyện K)

3. Về án phí: buộc bị cáo Ngô Văn Y phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

18
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 04/2023/HS-ST

Số hiệu:04/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Sơn - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về