TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG TÈ, TỈNH LAI CHÂU
BẢN ÁN 04/2022/HS-ST NGÀY 03/11/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 03 tháng 11 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện M xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩmthụ lý số: 05/2022/TLST-HS ngày 04 tháng 10 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2022/QĐXXST- HS ngày 24 tháng 10 năm 2022 đối với bị cáo:
Lò Me D, tên gọi khác Không- sinh năm 1993, tại huyện M, tỉnh L.
Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản A, xã P, huyện M, tỉnh L; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hoá: 3/12; Chức vụ đoàn thể, chính quyền: Không; Dân tộc: Mảng; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt nam; Con ông: Lò A X (đã chết), con bà: Mạ Phu B, sinh năm 1954; Bị cáo không có chồng hợp pháp và có 05 con đẻ, con lớn nhất sinh năm 2008, con nhỏ nhất sinh năm 2022. Ngoài ra còn có 01 con nuôi sinh năm 2017; Tiền án: 01 tiền án, ngày 22/5/2019 Lò Me D bị TAND huyện M, tỉnh L áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; khoản 1 Điều 256; điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38 và Điều 58 Bộ luật hình sự xử phạt 07 (bảy) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” 02 (hai) năm tù về tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”. Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự tổng hợp hình phạt bị cáo Lò Me D phải chấp hành là 09 (chín) năm tù. Lò Me D đang được hoãn chấp hành án phạt tù do đang nuôi con nhỏ, tiền sự: Không. Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã Pa Vệ Sủ từ ngày 14/6/2022 đến nay có mặt tại phiên tòa.
Người làm chứng: Lò Me B, sinh năm 1983.
Địa chỉ: Bản A, xã P, huyện M, tỉnh L. Vắng mặt không lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 11 giờ ngày 31/5/2022, sau khi đưa con gái đi tiêm chủng ở thị trấn M, huyện M xong, Lò Me D chở con đi về nhà tại bản A, xã P. Trên đường về, khi đến bản Nậm Củm, xã B, huyện M, D gặp một người đàn ông lạ mặt, khoảng 40 tuổi đang điều khiển xe máy đi ngược chiều. Qua trao đổi, D đã mua được của người này 01 gói Heroine, bên ngoài được gói bằng mảnh nilon màu trắng với giá 900.000 đồng, mục đích D mua Heroine là để sử dụng, vì D là người nghiện chất ma túy.
Trong các ngày từ 31/5/2022 đến 01/6/2022, mỗi ngày D đều lấy một ít trong gói Heroine nêu trên ra sử dụng, số Heroine còn lại D gói vào mảnh nilon màu trắng như lúc mới mua, rồi cất giấu vào trong túi quần mặc trên người. Đến khoảng 14 giờ ngày 02/6/2022, D lại tiếp tục đem gói Heroine đang cất giấu ra lấy một ít sử dụng. Số Heroine còn lại, D gói lại như cũ, rồi tiện tay nhét vào trong nách bên phải đứa con D đang bế trên tay (con gái của D mới sinh ngày 13/03/2022 ).
Khi D vừa cất giấu gói Heroine xong thì có Lò Me B, sinh năm 1983, trú cùng bản (là chị gái của D) đến chơi. Hồi 16 giờ 00 phút cùng ngày, khi D đang ngồi chơi cùng B thì bị tổ công tác Công an xã Pa Vệ Sủ và Công an xã B phát hiện, bắt quả tang, thu giữ gói Heroine mà D đang cất giấu như đã nêu trên. Tổ công tác đã mời người chứng kiến, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng theo quy định của pháp luật.
Tại bản kết luận giám định tư pháp số 51 ngày 02/6/2022 của người giám định tư pháp theo vụ việc Công an huyện M, đã kết luận: 01 gói chất bột khô, màu trắng thu giữ của Lò Me D có khối lượng là 1,78 gam.
Tại bản kết luận giám định số 485 ngày 10/6/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh L kết luận: Mẫu chất bột màu trắng gửi giám định là ma túy, loại: Heroine.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 22/5/2019, Lò Me D bị Toà án nhân dân huyện M xử phạt 09 năm tù về tội mua bán trái phép chất ma tuý và tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý. Lò Me D đang được hoãn chấp hành án phạt dù do đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi.
Về vật chứng của vụ án: 1,78 gam Heroine và 01 mảnh nilon màu trắng. Trong số 1,78 gam Heroine, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện M đã trích 0,13 gam gửi đi giám định, không hoàn lại mẫu vật. Các vật chứng còn lại đang được bảo quản theo quy định của pháp luật.
Tại bản cáo trạng số 82/CT- VKSMT ngày 02/10/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố bị cáo Lò Me D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại phiên Tòa Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lò Me D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Lò Me D từ 01 năm 08 tháng đến 02 năm 02 tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Đề nghị áp dụng Điều 56 tổng hợp bản án số 17/2019/HSST ngày 22/5/2019 đối với bị cáo.
Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 1,65 gam Heroine và 01 mảnh nilon màu trắng.
Bị cáo nhất trí với bản cáo trạng, bản luận tội của Viện kiểm sát, không bổ sung gì chỉ xin giảm nhẹ hình phạt.
Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện M, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp.
[2] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên Tòa và trong quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Lời nhận tội phù hợp với lời khai nhận tội tại cơ quan điều tra, biên bản thu giữ, niêm phong vật chứng, kết luận giám định về chất ma túy, lời khai của người làm chứng, các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Tòa án đã có đủ căn cứ kết luận: Hồi 16 giờ 00 phút, ngày 02/6/2022, tại nhà ở của Lò Me D thuộc bản A, xã P, huyện M, Lò Me D đang tàng trữ trái phép 1,78 gam Heroine để sử dụng, thì bị tổ công tác Công an xã P và Công an xã B phát hiện, bắt quả tang.
Hành vi nêu trên của bị cáo Lò Me D là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến khách thể được pháp luật hình sự Việt Nam bảo vệ, đó là chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và biết rõ hành vi phạm tội của mình bị pháp luật nghiêm cấm nhưng để thỏa mãn nhu cầu cá nhân nên vẫn cố ý thực hiện. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vì chất ma túy không những trực tiếp hủy hoại sức khỏe con người, làm suy thoái giống nòi, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội và an ninh quốc gia mà còn là nguyên nhân chủ yếu làm gia tăng tội phạm khác.
[3] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự thấy:
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế- xã hội khó khăn. Nên cần cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 22/5/2019, Lò Me D bị Toà án nhân dân huyện M xử phạt 09 năm tù về tội mua bán trái phép chất ma tuý và tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý. Lò Me D đang được hoãn chấp hành án phạt dù do đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi. Như vậy bị cáo đang được hoãn chấp hành án phạt tù nhưng lại phạm tội, nên lần phạm tội này bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (tái phạm) theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội và nhân thân của bị cáo về hành vi phạm tội của mình. Hội đồng xét xử xét thấy cần có một mức án nghiêm khắc phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục bị cáo thành công dân có ích cho xã hội đồng thời để nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân, đảm bảo công tác phòng ngừa chung cho xã hội. Do đó mức hình phạt như đại diện Viện kiểm sát đề nghị là hoàn toàn phù hợp, cần chấp nhận.
[4] Đối với người đàn ông lạ mặt mà theo lời khai đó là người đã bán Heroine cho bị cáo. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra không xác định được người đó là ai nên không thể xem xét xử lý; Đối với Lò Me B, B không biết D đang tàng trữ trái phép chất ma túy nên không đồng phạm với D; Đối với việc D cất gói Heroine vào nách con gái đang bế trên tay. Đây không phải là hành vi sử dụng người dưới 16 tuổi vào việc phạm tội. Vì con gái D lúc này mới hơn 02 tháng tuổi, chưa có sự nhận thức và chủ động về hành vi. D chỉ xem vị trí nách đứa con của mình là nơi cất giấu Heroine; D không lôi kéo, dụ dỗ, xúi dục, mua chuộc hoặc các hành vi khác để con của D thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy cho mình. Vì vậy, không xem xét trách nhiệm hình sự đối với D về hành vi này.
Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
[5] Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự. Bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, xét thấy điều kiện hoàn cảnh kinh tế của bị cáo khó khăn và không có điều kiện thi hành, Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về xử lý vật chứng: Đối với số Heroine còn lại 1,65 gam sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành và 01 mảnh nilon màu trắng không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.
[7] Về án phí: Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/UBTVQH14. Bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, nên cần miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
[8] Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định tại các Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Lò Me D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
Áp dụng: Điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50; Điều 47 Bộ luật hình sự. Điều 106; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị quyết 326/UBTVQH 14.
Xử phạt bị cáo Lò Me D 02 (hai) năm tù. Miễn áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo.
Áp dụng Điều 56 Bộ luật hình sự: Tổng hợp với hình phạt 09 năm tù tại bản án số 17/2019/HSST ngày 22/5/2019 của Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh L.
Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 11 (mười một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án Cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo từ ngày tuyên án đến khi bản án có hiệu lực pháp luật.
2. Về vật chứng. Tịch thu tiêu hủy: 1,65 gam Heroine và 01 mảnh nilon màu trắng.
(Vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công an huyện M và Chi cục Thi hành án Dân sự huyện M ngày 03/10/2022).
3. Án phí: Miễn toàn bộ án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lò Me D 4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 04/2022/HS-ST
Số hiệu: | 04/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mường Tè - Lai Châu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 03/11/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về