Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 03/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NẬM NHÙN, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 03/2022/HS-ST NGÀY 25/11/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25/11/2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh L xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 04/2022/HSST ngày 12/10/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2022/QĐXXST-HS ngày 11/11/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò AM; tên gọi khác: M; Sinh năm 1998, tại L;

Nơi ĐKHKTT: Bản Pa Pảng, xã Nậm Ban, huyện N, tỉnh L;

Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 03/12; dân tộc: Hà Nhì; quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Chức vụ Đảng, đoàn thể: Không; Con ông: Lò A X, sinh năm 1962 và con bà Lý Mỳ X, sinh năm 1964; Gia đình bị cáo có 06 chị em, bị cáo là con thứ năm trong gia đình; vợ: Lò Me Ph, sinh năm 1997 (đã ly hôn); con: Bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2017, con nhỏ sinh năm 2019;

Tiền án: Bị cáo có 01 tiền án, tại bản án số 11/2020/HSST, ngày 08/9/2020 bị cáo Lò AM bị Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh L xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Tính đến lần phạm tội này bị cáo chưa được xóa án tích.

Tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 10/7/2022 đến ngày 19/7/2022 chuyển tạm giam, tại Nhà tạm giữ Công an huyện N, tỉnh L cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 30 phút, ngày 10/7/2022, Lò AM mang theo 02 gói Heroine (bên ngoài đều được gói bằng mảnh nilon màu trắng, lớp thứ hai được gói bằng mảnh nilon màu hồng, lớp trong cùng là mảnh nilon màu xanh bên trong có chứa chất bột, màu trắng) để trong túi áo ngực bên trái và bắt xe khách từ bản Pa Mu, xã Hua Bum để đi về nhà ở bản Pa Pảng, xã Nậm Ban, huyện N, tỉnh L. Hồi 13 giờ 10 phút cùng ngày, khi xe khách đến Km 303+465, Quốc lộ 4H, thuộc địa phận bản Chang Chảo Pá, xã Hua Bum, huyện N, tỉnh L thì bị Công an huyện N phát hiện, bắt quả tang, thu giữ 02 gói Heroine trong túi áo ngực bên trái của Lò AM đang mặc trên người.

Tổ Công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng 02 gói chất bột màu trắng thu giữ của Lò AM.

Cùng ngày 10/7/2022, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N đã mở niêm phong và kết luận giám định khối lượng 02 gói chất bột, màu trắng thu giữ của Lò AM ký hiêu M1 và M2, có tổng khối lượng ma túy thu giữ của Lò AM là 3,60 gam và lấy toàn bộ 3,60 gam chất bột, màu trắng thu giữ của Lò AM làm mẫu giám định chất ma túy.

Tại bản kết luận giám định số 673/GĐ-KTHS ngày 13/7/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh L kết luận: 02 Mẫu chất bột, màu trắng (ký hiệu M1 và M2) thu giữ của Lò AM gửi đến giám định là ma tuý, loại Heroine (không hoàn lại mẫu vật gửi giám định).

Cáo trạng số 43/CT - VKS ngày 11 tháng 10 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh L đã truy tố bị cáo Lò AM về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 quy định:

1."Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm):

c) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

...

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh L giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị H đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lò AM phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy"; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lò AM từ 03 năm 06 tháng tù đến 04 năm tù; áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo, về án phí bị cáo sống tại khu vực đặc biệt khó khăn, do vậy đề nghị miễn án phí cho bị cáo theo quy định của pháp luật và đề nghị xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, trước H đồng xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo và tỏ rõ sự ăn năn hối cải về hành vi của mình đã gây ra. Tại phần tranh luận, bị cáo nhất trí với bản luận tội của Viện kiểm sát và không có ý kiến tranh luận gì, bị cáo chỉ xin H đồng xét xử xem xét điều kiện hoàn cảnh gia đình bị cáo và xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời trình bày của bị cáo. H đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, Quyết định của Cơ quan điều tra huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Vì vậy H đồng xét xử có đủ cơ sở để khẳng định:

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với nội dung bản Cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố, bị cáo cũng thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Do vậy, H đồng xét xử có cơ sở khẳng định: Do bản thân bị cáo Lò AM nghiện ma tuý. Hồi 13 giờ 10 phút ngày 10/7/2022, tại Km 303+465, Quốc lộ 4H thuộc bản Chang Chảo Pá, xã Hua Bum, huyện N, tỉnh L, Lò AM đã có hành vi tàng trữ trái phép 02 gói Heroine có tổng khối lượng là 3,60 gam thì bị Công an huyện N bắt quả tang và thu giữ toàn bộ số ma túy trên, mục đích bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy là để sử dụng cho bản thân.

Do vậy, hành vi trên của bị cáo Lò AM đã đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh L đã truy tố bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3]. Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, gây ảnh hưởng đến trật tự trị an trên địa bàn. Hơn nữa, ma tuý còn là tác nhân làm gia tăng tội phạm, làm suy thoái nhân cách, phẩm giá, tàn phá cuộc sống yên vui của gia đình và xã hội. Bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý là vi phạm pháp luật nhưng vì bản thân nghiện ma tuý nên bị cáo đã cố ý thực hiện.

[4]. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội mà mình gây ra. Xong khi quyết định hình phạt H đồng xét xử cũng xem xét: Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên toà và trong quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Lò AM có 01 tiền án về tội trộm cắp tài sản, tính đến lần phạm tội này bị cáo chưa được xóa án tích nên bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Vì vậy, cần phải áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để bị cáo có cơ hội tu dưỡng, rèn luyện và cải tạo bản thân thành công dân có ích cho xã hội.

Về hình phạt bổ sung: Xét điều kiện, hoàn cảnh kinh tế bị cáo khó khăn, không có thu nhập ổn định nên cần miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[5]. Về xử lý vật chứng vụ án:

- 3,60 gam ma túy thu giữ của bị cáo Lò AM đã gửi toàn bộ đi giám định, không hoàn lại mẫu vật nên H đồng xét xử không đề cập giải quyết.

- Vỏ bì và mảnh nilon sau khi mở niêm phong vật chứng thu giữ của Lò AM được niêm phong lại trong 01 phong bì niêm phong do Công an huyện N phát hành. Mặt trước của bì niêm phong có ghi: Vỏ bì và mảnh nilon sau khi mở niêm phong của Lò AM, sinh năm 1998, trú tại bản Pa Pảng, xã Nậm Ban, huyện N, tỉnh L, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Mặt sau, trên mép dán bì niêm phong dùng mảnh giấy trắng dán đè lên có chữ ký và ghi đầy đủ họ tên của: Lò Văn H, Vũ Mạnh H1, Lò Văn N, Giàng A T, Lò A H2, Lò AM và đóng 02 hình dấu tròn đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện N, tỉnh L ở hai đầu mép dán.

Xét thấy đây là vỏ bì niêm phong vật chứng và mảnh nilon sau khi mở niêm phong của vụ án không còn giá trị sử dụng, nên cần áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự nên cần tịch thu, tiêu hủy.

Trong vụ án Lò AM khai nguồn gốc số ma túy bị cáo mua của một người đàn ông tên Lâm tại bản Pa Mu, xã Hua Bum, huyện N ngày 10/7/2022 với giá 400.000 đồng. Kết quả điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch, địa chỉ của người đàn ông trên trên. Do vậy H đồng xét xử không có căn cứ để xử lý.

[6]. Về án phí: Bị cáo Lò AM là dân tộc thiểu số sống thuộc khu vực kinh tế đặc biệt khó khăn nên cần áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội để miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lò AM phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

1. Về hình phạt:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Lò AM 04 (Bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/7/2022.

Áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự, miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo.

2. Về xử lý vật chứng của vụ án:

Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy:

- Vỏ bì và mảnh nilon sau khi mở niêm phong vật chứng thu giữ của Lò AM được niêm phong lại trong 01 phong bì niêm phong do Công an huyện N phát hành. Mặt trước của bì niêm phong có ghi: Vỏ bì và mảnh nilon sau khi mở niêm phong của Lò AMê, sinh năm 1998, trú tại bản Pa Pảng, xã Nậm Ban, huyện N, tỉnh L, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Mặt sau, trên mép dán bì niêm phong dùng mảnh giấy trắng dán đè lên có chữ ký và ghi đầy đủ họ tên của: Lò Văn H, Vũ Mạnh H1, Lò Văn N, Giàng A T, Lò A H2, Lò AM và đóng 02 hình dấu tròn đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện N, tỉnh L ở hai đầu mép dán.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng vào hồi 15giờ 40 phút ngày 26/10/2022 giữa Cơ quan Công an huyện N, tỉnh L với Chi cục thi hành án dân sự huyện N, tỉnh L).

3. Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

4. Áp dụng Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

22
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 03/2022/HS-ST

Số hiệu:03/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nậm Nhùn - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về