Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 03/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIẾN XƯƠNG, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 03/2022/HS-ST NGÀY 19/01/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 19 tháng 01 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 66/2021/TLST-HS ngày 17 tháng 12 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2022/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 01 năm 2022 đối với:

Bị cáo: Đỗ Mạnh H, sinh năm 1975 tại xã M, huyện V, tỉnh Thái Bình.

Nơi cư trú: tổ 21, phường T, thành phố B, tỉnh Thái Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 12/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đỗ Trọng H( đã chết) và bà Bùi Thị M.

Tiền sự: không.

Tiền án: Bản án số 176/2012/HSST ngày 30/10/2012 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xử phạt Đỗ Mạnh H 07 năm 6 tháng tù về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 03/3/2018.

Bản án số 129/2018/HSST ngày 28/8/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xử phạt Đỗ Mạnh H 01 năm 6 tháng tù về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 01/10/2019.

Nhân thân: Bản án số 50/HSST ngày 09/4/1997 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình xử phạt Đỗ Mạnh H 01 năm tù về tội “ Trộm cắp tài sản của công dân”;

Bản án số 129/PTHS ngày 09/9/2004 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xử phạt Đỗ Mạnh H 01 năm 06 tháng tù về tội “ Dâm ô đối với trẻ em”’ Quyết định số 300/QĐ-UBND ngày 17/3/2008 của Ủy ban nhân dân thành phố Thái Bình về việc áp dụng biện pháp đưa vào Trung tâm chữa bệnh, giáo dục, lao động xã hội để cai nghiện, thời hạn 12 tháng.

Bố đẻ bị cáo ông Đỗ Trọng Huỳnh được Chủ tịch nước tặng Huân chương kháng chiến hạng Nhất ngày 21/3/1998 và mẹ đẻ bị cáo là bà Bùi Thị Mai được Chủ tịch Hội đồng Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến hạng Ba ngày 10/3/1987.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 04/8/2021 đến ngày 10/8/2021 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam công an tỉnh Thái Bình; Bị cáo được trích xuất có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ 10 phút ngày 04/8/2021 tại khu vực trước cửa trường mầm non xã Q, huyện Kiến Xương, Công an huyện Kiến Xương bắt quả tang H  tàng trữ ở gầm xe mô tô BKS 17F1-X do H  điều khiển 07 gói ma túy loại hê rô in, qua giám định có khối lượng 0,6826 gam. Nguồn gốc số hê rô in trên là do H  mua của một người không quen biết tại khu vực Cống Trắng, TP Thái Bình với giá 1.400.000 đồng vào khoảng 09 giờ cùng ngày mục đích để bản thân sử dụng.

Vật chứng vụ án: Thu giữ của Đỗ Mạnh H 07 gói hê rô in có khối lượng 0,6826 gam và 01 xe mô tô BKS 17F1-X. Công an huyện Kiến Xương xác định chiếc xe mô tô là tài sản hợp pháp của bà Bùi Thị M nên đã trả lại.

Tại bản kết luận giám định số 299/KLGĐMT-PC09 ngày 05/8/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình ghi: Mẫu vật gửi giám định là ma túy, loại Hê rô in có khối lượng 0,6826 gam.

Cáo trạng số 01/CT-VKSKX ngày 16/12/2021 Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương truy tố Đỗ Mạnh H về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố trong bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 BLHS: tuyên bố bị cáo Đỗ Mạnh H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; xử phạt bị cáo mức án từ 05 năm 6 tháng đến 06 năm tù.

Về hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: tịch thu của bị cáo 0,5956 gam Hê rô in còn lại sau giám định để tiêu hủy.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo khai nhận do nghiện ma túy nên đã mua về sử dụng, không có ý kiến gì về bản kết luận giám định, không có khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Trong lời nói sau cùng bị cáo xin HĐXX xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Kiến Xương, Điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, ngoài ra hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng các chứng cứ sau đây: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu; Biên bản ghi lời khai của những người chứng kiến ông Lê Văn T, sinh năm 1965 và ông Đỗ Đức K, sinh năm 1960, đều ở địa chỉ: thôn L, xã Q, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.

[3] Từ những căn cứ nêu trên có đủ cơ sở kết luận: khoảng 18 giờ 10 phút ngày 04/8/2021 tại khu vực trước cửa trường mầm non, xã Q thuộc thôn L, xã Q, huyện Kiến Xương, Đỗ Mạnh H đã tàng trữ trái phép 0,6826 gam Hê rô in mục đích để bản thân sử dụng. Do bị cáo đã hai lần bị Tòa án xét xử về tội ma túy chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 BLHS.

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

……… 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

………………..

o. Tái phạm nguy hiểm.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

[4] Hành vi của bị cáo là rất nghiêm trọng, bị cáo đã nhiều lần phạm tội trong đó có hai lần bị kết án về tội ma túy chưa được xóa án tích, do thiếu ý thức rèn luyện đặc biệt là việc coi thường pháp luật nên bị cáo tiếp tục tàng trữ trái phép ma túy để sử dụng. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy, làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội. Do vậy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội thời gian dài mới đủ tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo.

[5] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 BLHS; được hưởng hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo và bố mẹ bị cáo là người có công với cách mạng quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS. Vì vậy cần giảm cho bị cáo một phần hình phạt thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[6] Về hình phạt bổ sung: bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy với mục đích sử dụng cho bản thân, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về nguồn gốc số ma túy: bị cáo khai mua của một người đàn ông không rõ tên, địa chỉ tại thành phố Thái Bình, nên không có căn cứ để xử lý.

[8] Về xử lý vật chứng: tổng khối lượng 0,6826 gam Hê rô in, sau khi giám định còn lại 0,5956 gam là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu tiêu hủy theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[9] Về án phí: Bị cáo Đỗ Mạnh H phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 BLHS; các điều 106, 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Tuyên bố: bị cáo Đỗ Mạnh H phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

2.Xử phạt bị cáo Đỗ Mạnh H 06 ( sáu) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ 04/8/2021.

3.Về xử lý vật chứng: tịch thu của Đỗ Mạnh H 0,5956 gam Hê rô in còn lại sau giám định cùng bao gói để tiêu hủy (theo như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản kê biên giữa Công an huyện Kiến Xương và Chi cục thi hành án dân sự huyện Kiến Xương ngày 16/12/2021).

4. Về án phí: bị cáo Đỗ Mạnh H phải chịu 200.000( hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 19/01/2022. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

10
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 03/2022/HS-ST

Số hiệu:03/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiến Xương - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về