Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 03/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM ĐƯỜNG, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 03/2022/HS-ST NGÀY 08/11/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 11 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 04/2022/TLST-HS ngày 10 tháng 10 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2022/QĐXXST-HS ngày 28/10/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lường Xuân T; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 12/10/1978; Tại: TĐ, Lai Châu; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản MM, thị trấn TĐ, huyện TĐ, tỉnh Lai Châu; Quốc tịch: Việt Nam; Dân Tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 06/12; Nghề nghiệp: Tự do; con ông: Lường Văn Đ, sinh năm 1946 con bà: Lẻo Thị M, sinh năm 1956. Gia đình bị cáo có 06 anh em. Bị cáo là con thứ nhất trong gia đình; Vợ: Lò Thị TH1, sinh năm 1978; Bị cáo có 01 người con sinh năm 2015; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Tại bản án hình sự số 15/HSST ngày 28/6/2000 của Tòa án nhân dân huyện PT áp dụng khoảng 1 điều 104 BLHS tuyên phạt 12 tháng tù giam về tội cố ý gây tích thời hạn tù tính từ ngày 15/3/2000. Tại bản án hình sự số 15/2011/HSST ngày 11/1/2011 của Tòa án nhân dân huyện TĐ áp dụng khoản 1 điều 194, điểm p khoản 1 điều 46 BLHS xử phạt 30 tháng tù giam về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, thời hạn tù tính từ ngày 30/10/2010, Lường Xuân T đã chấp hành xong hình phạt chính và các nghĩa vụ dân sự khác. Đến ngày phạm tội 13/7/2022 bị cáo đã được xóa án tích theo quy định.

Bị cáo Lường Xuân T bị bắt và tạm giữ, từ ngày 13/7/2022 đến ngày 16/7/2022 bị can được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, giao bị can cho UBND thị trấn TĐ, huyện TĐ theo dõi, quản lý đến nay “có mặt”.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Chị Lường Thị TH, sinh năm 1980. Địa chỉ: Bản MM, thị trấn TĐ, huyện TĐ, tỉnh Lai Châu “vắng mặt có lý do”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 07 giờ 30 phút ngày 13/7/2022 Lường Xuân T điều khiển xe mô tô BKS: 25AA – X của chị Lường Thị TH sinh năm: 1980 trú tại bản MM, thị trấn TĐ, huyện TĐ, tỉnh Lai Châu di chuyển từ bản MM, thị trấn TĐ đi đến bản TC, thị trấn TĐ để tìm mua Heroine về sử dụng cho bản thân (T không nói cho chị TH biết mục đích của mình). Khi đi đến bản TC, thị trấn TĐ, T gặp một người nam giới không biết tên, tuổi, địa chỉ giống người nghiện ma túy nên T hỏi nhờ người nam giới này đi mua hộ Heroine đồng thời đưa cho người nam giới này số tiền 200.000 đồng. Người nam giới nhất trí, cần tiền T đưa người nam giới đi đâu, làm gì T không biết. Khoảng 15 phút sau người nam giới quay lại đưa cho T 01 gói Heroine được gói ngoài bằng mảnh nilon màu xanh được quấn xoắn một đầu, mua được Heroine T cất giấu vào trong túi quần bên trái rồi điều khiển xe mô tô đi về nhà của mình còn người nam giới mua hộ Heroine cho T đi đâu, làm gì T không biết. Trên đường đi về T gặp một người nam giới tên Thành trú tại thị trấn TĐ, huyện TĐ xin đi nhờ xe mô tô, T đồng ý rồi điều khiển xe mô tô chở theo Thành đi về nhà.

Đến khoảng 08 giờ 00 phút cùng ngày, Lường Xuân T điều khiển xe mô tô đi đến đường LXĐ thuộc bản MM, thị trấn TĐ, huyện TĐ tỉnh Lai Châu, T bị đội cảnh sát giao thông trật tự Công an huyện TĐ dừng xe kiểm tra hành chính. Sau khi kiểm tra hành chính cán bộ đội cảnh sát giao thông trật trự hỏi Lường Xuân T trên người có đồ vật, tài liệu liên quan đến việc phạm tội không, do đang tàng trữ trái phép 01 gói Heroine trên người, sợ bị phát hiện nên T đã bỏ chạy vào ngõ số 01 đường LĐC thuộc bản MM, thị trấn Tam Đường thì bị đội cảnh sát giao thông trật tự công an huyện Tam Đường bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng.

Tại bản kết luận giám định số 32/KLGĐ ngày 13/7/2022 của ông Phan Văn H - Người giám định tư pháp theo vụ việc trong lĩnh vực kỹ thuật hình sự, theo Quyết định công bố danh sách người giám định tư pháp theo vụ việc lĩnh vực kỹ thuật hình sự trên địa bàn tỉnh Lai Châu. Kết luận:

- Số chất bột khô màu trắng thu giữ của Lường Xuân T có khối lượng là: 0,25 gam (không phẩy hai mươi năm gam);

Tại bản kết luận giám định số 677/GĐ-KTHS ngày 14/7/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: 01 (một) mẫu chất bột màu trắng gửi giám định là ma túy, loại: Heroine;

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và truy tố bị cáo Lường Xuân T đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bố của bị cáo là ông Lường Văn Đ được Chủ tịch nước tặng Huy chương kháng chiến hạng nhất. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Ngoài ra cơ quan điều tra còn tạm giữ của Lường Xuân T số tiền 100.000 đồng; 01 xe mô tô BKS: 25AA - X kèm theo đăng ký.

Trên cơ sở kết quả điều tra, căn cứ đơn xin lại tài sản. Ngày 27/9/2022 Cơ quan CSĐT- Công an huyện TĐ đã ra Quyết định số 22/QĐ trả lại cho chị Lường Thị TH 01 xe mô tô BKS: 25AA – X kèm theo đăng ký. Trả lại cho Lường Xuân T số tiền 100.000 đồng là phù hợp.

* Về trách nhiệm dân sự: Không.

Bản cáo trạng số 39/CT-VKSTĐ, ngày 10/10/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TĐ truy tố bị cáo Lường Xuân T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về kết luận và bản cáo trạng nêu trên.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát huyện TĐ giữ nguyên quan điểm truy tố của mình đồng thời phân tích, đánh giá toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lường Xuân T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Về hình phạt: Đề nghị áp dụng Điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điều 38 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) tuyên phạt bị cáo Lường Xuân T mức án từ 16 đến 24 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, bị cáo được trừ 03 ngày tạm giữ. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào cơ sở chấp hành án. Miễn áp dụng hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Đề nghị tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại 0,14 gam được gói lại bằng mảnh giấy trắng, phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, mảnh nilon màu xanh gói chất bột màu trắng ban đầu được cho vào một phong bì công văn do công an huyện TĐ phát hành niêm phong lại và dán kín các mép. Mặt trước phong bì ghi: “Mẫu vật còn lại khối lượng 0,14 gam, mảnh nilon màu xanh và phong bì niêm phong vật chứng ban đầu thu giữ của Lường Xuân T, sinh năm: 1978 trú tại: bản MM, thị trấn TĐ, huyện TĐ, tỉnh Lai Châu, ngày 13/7/2022”. Mặt sau phong bì được dán kín các mép bằng một tờ giấy niêm phong màu trắng dán kín phong bì từ mặt sau ra mặt trước, trên các mép dán của mảnh giấy niêm phong có các chữ ký và ghi rõ họ tên của: Lê Trọng V, Thái Đình X, Phan Văn H, Đặng Văn H, Phạm Văn B, Đỗ Đức T và Lường Xuân T. Trên mép dán của tờ giấy niêm phong ở bốn góc mặt trước phong bì đóng bốn hình dấu tròn màu đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện TĐ. Đây là vật cấm tàng trữ lưu hành, vật không có giá trị sử dụng, công cụ bị cáo dùng vào việc phạm tội;

Bị cáo Lường Xuân T không có ý kiến tranh luận đối với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TĐ.

Bị cáo Lường Xuân T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Tại lời nói sau cùng bị cáo Lường Xuân T xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi phạm tội của bị cáo; tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tại phiên tòa hôm nay cũng như quá trình điều tra bị cáo Lường Xuân T đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình. Lời nhận tội của bị cáo đều phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ. Như vậy đã có đủ căn cứ khẳng định: Vào khoảng 08 giờ 00 phút ngày 13 tháng 7 năm 2022 tại ngõ số 01 đường Lương Định Của thuộc bản MM, thị trấn TĐ, huyện TĐ, tỉnh Lai Châu. Lường Xuân T đang có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói Heorine được gói ngoài bằng nilon màu xanh được buộc xoắn một đầu có khối lượng 0,25 gam tại túi quần bên trái đang mặc để sử dụng cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng thì bị đội cảnh sát giao thông trật tự công an huyện TĐ bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý của nhà nước về các chất ma túy, ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an trên địa bàn. Ý thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì nghiện chất ma túy nên đã thúc đẩy bị cáo cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng.

Hành vi của bị cáo Lường Xuân T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Bị cáo Lường Xuân T được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự (thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; Bố của bị cáo là ông Lường Văn Đ được Chủ tịch nước tặng Huy chương kháng chiến hạng nhất).

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

Đối với người nam giới đã mua hộ Heroine cho bị cáo vào ngày 13/7/2022 tại TC, thị trấn TĐ, huyện TĐ, tỉnh Lai Châu. Do nhân thân lai lịch của người nam giới này không rõ ràng nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra làm rõ và xử lý;

Đối với người nam giới tên Thành trú tại thị trấn TĐ, huyện TĐ, tỉnh Lai Châu xin đi nhờ xe mô tô BKS: 25AA – X do T điều khiển, Việc Lường Xuân T tàng trữ trái phép chất ma túy Thành không biết nên Thành không đồng phạm với Lường Xuân T về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy;

Đối với chị Lường Thị TH sinh năm: 1980 trú tại bản MM, thị trấn TĐ, huyện TĐ, tỉnh Lai Châu là chủ sở hữu hợp pháp của xe mô tô BKS: 25AA – X Lường Xuân T sử dụng xe mô tô của chị TH làm phương tiện phạm tội chị TH không biết nên Lường Thị TH không đồng phạm với bị cáo về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy;

[2] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện TĐ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện TĐ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định tại các Điều 17, Điều 19, Điều 20, Điều 34, Điều 36, Điều 37, Điều 41, Điều 42 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Vật chứng:

Mẫu vật còn lại 0,14 gam được gói lại bằng mảnh giấy trắng, phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, mảnh nilon màu xanh gói chất bột màu trắng ban đầu được cho vào một phong bì công văn do công an huyện TĐ phát hành niêm phong lại và dán kín các mép. Mặt trước phong bì ghi: “Mẫu vật còn lại khối lượng 0,14 gam, mảnh nilon màu xanh và phong bì niêm phong vật chứng ban đầu thu giữ của Lường Xuân T, sinh năm: 1978 trú tại: bản MM, thị trấn TĐ, huyện TĐ, tỉnh Lai Châu, ngày 13/7/2022”. Mặt sau phong bì được dán kín các mép bằng một tờ giấy niêm phong màu trắng dán kín phong bì từ mặt sau ra mặt trước, trên các mép dán của mảnh giấy niêm phong có các chữ ký và ghi rõ họ tên của: Lê Trọng V, Thái Đình X, Phan Văn H, Đặng Văn H, Phạm Văn B, Đỗ Đức T và Lường Xuân T. Trên mép dán của tờ giấy niêm phong ở bốn góc mặt trước phong bì đóng bốn hình dấu tròn màu đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện TĐ. Đây là vật cấm tàng trữ lưu hành, vật không có giá trị sử dụng, công cụ bị cáo dùng vào việc phạm tội cần tịch thu tiêu hủy.

[4] Án phí:

Bị cáo Lường Xuân T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm Điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 BLHS 2015 ; Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lường Xuân T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Lường Xuân T 20 (hai mươi) tháng tù. Được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 13/7/2022 đến ngày 16/7/2022 là 3 (ba) ngày. Bị cáo còn phải chấp hành 19 (mười chín) tháng 27 (hai mươi bảy) ngày tù. Thời hạn từ được tính từ ngày bị cáo đi chấp hành hình phạt tù. Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

3. Về vật chứng của vụ án: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: Mẫu vật còn lại 0,14 gam Heroine được gói lại bằng mảnh giấy trắng, phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, mảnh nilon màu xanh gói chất bột màu trắng ban đầu được cho vào một phong bì công văn do công an huyện TĐ phát hành niêm phong lại và dán kín các mép. Mặt trước phong bì ghi: “Mẫu vật còn lại khối lượng 0,14 gam, mảnh nilon màu xanh và phong bì niêm phong vật chứng ban đầu thu giữ của Lường Xuân T, sinh năm: 1978 trú tại: bản MM, thị trấn TĐ, huyện TĐ, tỉnh Lai Châu, ngày 13/7/2022”. Mặt sau phong bì được dán kín các mép bằng một tờ giấy niêm phong màu trắng dán kín phong bì từ mặt sau ra mặt trước, trên các mép dán của mảnh giấy niêm phong có các chữ ký và ghi rõ họ tên của: Lê Trọng V, Thái Đình X, Phan Văn H, Đặng Văn H, Phạm Văn B, Đỗ Đức T và Lường Xuân T. Trên mép dán của tờ giấy niêm phong ở bốn góc mặt trước phong bì đóng bốn hình dấu tròn màu đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện TĐ. Đây là vật cấm tàng trữ lưu hành, vật không có giá trị sử dụng, công cụ bị cáo dùng vào việc phạm tội (Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng vào hồi 10 giờ 50 phút ngày 10/10/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TĐ với Chi Cục thi hành án dân sự huyện TĐ).

4. Về án phí: Bị cáo Lường Xuân T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm 5. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án này lên Tòa án nhân dân cấp trên trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo về về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình lên Tòa án nhân dân cấp trên trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 03/2022/HS-ST

Số hiệu:03/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Đường - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về