TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PH, TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN 03/2021/HSST NGÀY 16/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 16 tháng 3 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ph, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 01/2021/HSST, ngày 24 tháng 02 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2021/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 03 năm 2021 đối với bị cáo:
Đinh Nguyễn Ngọc Q - sinh ngày 29/3/1996 Nơi đăng ký HKTT: Số 085, khu vực 2, phường B, quận C, Thành phố Cần Thơ; Nơi tạm trú: Thôn H, xã T, huyện Ph, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: Tiếp viên; Trình độ học vấn: 9/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Đinh Văn S và bà Nguyễn Thị Xuân Kh; Gia đình có 03 anh chị em, bị cáo là con thứ hai; Chồng: không có; bị cáo có 01 con sinh năm 2013; Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt ngày 17/11/2020, hiện đang tạm giam tại cơ sở giam giữ Công an huyện Ph, tỉnh Bình Thuận (có mặt tại phiên toà).
* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1/ Chị Huỳnh Thị Thu D (tên thường gọi: Qu) – sinh năm: 1993 Nơi đăng ký HKTT: Ấp Th, xã Nh, huyện Ph, Thành phố Cần Thơ. Tạm trú tại: Nhà nghỉ Ph, thôn H, xã T, huyện Ph, tỉnh Bình Thuận.
2/ Ông Võ Minh Ph – sinh năm: 1972 Trú tại: Thôn H, xã T, huyện Ph, tỉnh Bình Thuận.
3/ Ông Đỗ Văn M – sinh năm: 1983 Trú tại: Thôn M, xã T, huyện Ph, tỉnh Bình Thuận.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 16 giờ 35 phút ngày 17/11/2020, Đồn Biên phòng Cửa khẩu Cảng Ph phối hợp với Công an xã T tiến hành kiểm tra hành chính tại phòng trọ số 102 nhà nghỉ Ph thuộc thôn H, xã T, huyện Ph, tỉnh Bình Thuận thì phát hiện Đinh Nguyễn Ngọc Q (tên gọi khác Ng) sinh 1996, thường trú tại số 85, khu vực 2, Phường B, Quận C, thành phố Cần Thơ (đang tạm trú tại thôn H, xã T, huyện Ph, tỉnh Bình Thuận). Quá trình kiểm tra phát hiện trên bàn trang điểm của Q có 01 hộp giấy màu trắng, kích thước (14 x 7,5 x 04) cm, bên trong chứa 01 túi ni lông không màu, trong túi ni lông có 03 viên nén màu xanh có kích thước (07 x 4,2) cm được hàn kín một đầu và một đầu có nhíp kéo; trong số 03 viên gồm 01 viên nén một mặt có hình chữ R và tám chấm tròn, mặt còn lại có vạch ngang ở giữa; 01 viên nén một mặt có nửa phần trên chữ R và bốn chấm tròn và 01 viên nén có nửa phần dưới chữ R và bốn chấm tròn. Khi bắt quả tang Q khai nhận 03 viên nén màu xanh nêu trên là ma túy (thuốc lắc) do trước đây 05 ngày, Q đến quán karaoke Nice thuộc thôn M, xã T, huyện Ph, tỉnh Bình Thuận làm tiếp viên để phục vụ khách. Lúc này, trong phòng có 05 người khách nam nhưng Q không biết rõ tên gì và ở đâu, trong lúc hát karaoke thì có một người khách cho Q 03 viên nén màu xanh nêu trên để sử dụng nhưng Q không sử dụng ngay lúc đó, khi phục vụ xong thì Q mang 03 viên ma túy nêu trên về để ở trên bàn trang điểm trong phòng nhằm mục đích để sử dụng sau này thì bị bắt quả tang, thu giữ.
Thời điểm kiểm tra thì trong phòng 102 chỉ có một mình Q, không có mặt chị Huỳnh Thị Thu D, tên gọi khác là Qu, sinh 1993, thường trú tại ấp Th, xã Nh, huyện Ph, thành phố Cần Thơ (là người ở chung phòng 102 của nhà nghỉ Ph với Q), việc Q tàng trữ ma túy để sử dụng thì D và ông Võ Minh Ph, sinh 1972 (chủ nhà trọ) ở thôn H, xã T, huyện Ph, tỉnh Bình Thuận không có ai biết.
Tang vật thu giữ gồm: 01 hộp giấy màu trắng có kích thước khoảng (14 x 7,5 x 4) cm; 01 túi ni lông không màu kích thước khoảng (07 x 4,2) cm được hàn kín một đầu, một đầu có nhíp kéo và vạch ngang màu đỏ, bên trong có chứa 03 viên nén màu xanh, gồm 01 viên nén một mặt có hình chứ R và tám chấm tròn, mặt còn lại có vạch ngang ở giữa; 01 viên nén một mặt có nửa phần trên chữ R và bốn chấm tròn; 01 viên nén có nửa phần dưới chữ R và bốn chấm tròn.
- Tại Bản kết luận giám định số 1274/KLGĐ-PC09 ngày 20/11/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Thuận kết luận: 01 gói ni lông không màu, một đầu có khóa kéo màu đỏ, bên trong có chứa 03 (ba) viên nén màu xanh (ký hiệu M), cụ thể: 01 (một) viên có hình chữ R và tám chấm tròn ở một mặt, mặt còn lại có vạch kẻ ngang ở giữa; 01 (một) viên có hình nửa trên chữ R và bốn chấm tròn ở một mặt; 01 (một) viên có hình nửa dưới chữ R và bốn chấm tròn ở một mặt được niêm phong trong phong bì gửi đến giám định có khối lượng 0,6767 gam MDMA, sau khi giám định còn lại 0,5573gam.
Tại bản cáo trạng số: 01/QĐ/KSĐT/VKS-HS ngày 23/02/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ph truy tố Đinh Nguyễn Ngọc Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ph, tỉnh Bình Thuận thực hành quyền công tố phân tích hành vi phạm tội của bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo; đồng thời đề nghị HĐXX áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung năm 2017; xử phạt: Bị cáo Đinh Nguyễn Ngọc Q từ 12 tháng đến 16 tháng tù.
Về vật chứng của vụ án: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung năm 2017; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 để xử lý theo quy định của pháp luật.
Bị cáo không trình bày lời bào chữa cũng như không có ý kiến về lời luận tội của Kiểm sát viên; đồng thời thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và đồng ý với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ph, tỉnh Bình Thuận nhưng xin được giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về gia đình, địa phương, làm công dân tốt và nuôi dạy con nhỏ.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Ph, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ph, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội: Lời khai nhận của bị cáo Đinh Nguyễn Ngọc Q tại phiên toà sơ thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và những người liên quan; phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ và niêm phong vật chứng, mở niêm phong vật chứng, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở khẳng định: Vào khoảng 16 giờ 30 phút ngày 17/11/2020, Đồn biên phòng Cửa khẩu Cảng Ph phối hợp với Công an xã T, huyện Ph, tỉnh Bình Thuận kiểm tra hành chính tại phòng trọ 102 nhà nghỉ Ph thuộc thôn H, xã T bắt quả tang Q đang tàng trữ, cất dấu 01 (một) túi ni lông không màu, được bịt kín một đầu, bên trong có chứa 03 (ba) viên ném màu xanh có chứa thành phần MDMA (thuốc lắc), khối lượng là 0,6767 gam. Hành vi của Đinh Nguyễn Ngọc Q đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự; cáo trạng truy tố bị cáo Đinh Nguyễn Ngọc Q theo tội danh và điều luật đã viện dẫn là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2.1] Hành vi phạm tội của bị cáo Đinh Nguyễn Ngọc Q là rất nguy hiểm cho xã hội, đã làm ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an tại địa phương, là nguyên nhân làm gia tăng tội phạm về ma tuý trong xã hội, trực tiếp xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy nên cần thiết phải xử lý nghiêm minh để giáo dục, cải tạo đối với bị cáo và phòng ngừa chung, góp phần đấu tranh phòng, chống tệ nạn và các tội phạm về ma túy trong đời sống xã hội.
[2.2] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
[2.3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình; bị cáo Q có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu; bị cáo có 01 con còn nhỏ, gia đình của bị cáo có công với cách mạng (có bà ngoại là Bà mẹ Việt Nam anh hùng; có ông ngoại và 02 cậu là liệt sỹ) nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[2.4] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ ma tuý để sử dụng không nhằm mục đích khác để kiếm lời, bị cáo có con nhỏ ở với bà ngoại nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Đinh Nguyễn Ngọc Q theo khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
[3] Bị cáo Đinh Nguyễn Ngọc Q khai nhận không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể của đối tượng đưa ma tuý nên không có căn cứ để xác minh, làm rõ và xử lý về các đối tượng này; riêng những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không biết bị cáo tàng trữ ma tuý. Do đó, cáo trạng không truy tố nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[4] Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy một hộp giấy màu trắng kích thước (14x7,5x4) cm và một phong bì số 1274, bên trong có 0,5573 gam MDMA.
[5] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Đinh Nguyễn Ngọc Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổ, bổ sung năm 2017.
Xử phạt: Bị cáo Đinh Nguyễn Ngọc Q 12 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/11/2020.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Đinh Nguyễn Ngọc Q.
2. Xử lý vật chứng:
Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổ, bổ sung năm 2017 và khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy đối với 01 (một) hộp giấy màu trắng kích thước (14x7,5x4) cm và một phong bì số 1274, bên trong có 0,5573 gam MDMA.
(Vật chứng nêu trên đã chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự huyện Ph, tỉnh Bình Thuận theo biên bản giao nhận ngày 23/02/2021).
3. Án phí hình sự sơ thẩm:
Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Đinh Nguyễn Ngọc Q phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo:
Án xử công khai, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 16/3/2021)
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 03/2021/HSST
Số hiệu: | 03/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Phú Quí - Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/03/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về