TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LAI CHÂU, TỈNH LAI CHÂU
BẢN ÁN 02/2024/HS-ST NGÀY 28/10/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 28 tháng 10 năm 2024 Tòa án nhân dân thành phố Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu đối với vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 04/2024/HSST ngày 08 tháng 10 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2024/QĐXXST-HS ngày 17/10/2024 đối với bị cáo:
Họ và tên: Phàn A D; Tên gọi khác: Không có; Giới tính: nam; Sinh ngày 25/5/1994 tại tỉnh Lai Châu; Nơi ĐKHKTT: Bản C, xã Nậm C, huyện H, tỉnh Lai Châu; Quốc tịch:Việt Nam; Dân tộc: Dao; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông Phàn A L, sinh năm 1976 và con bà: Thần Thị Th, sinh năm 1974; Vợ: Lý Thị M, sinh năm 1993; Con: Bị cáo 02 có con, con lớn sinh năm 2016, con nhỏ sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 28/6/2024 đến ngày 04/7/2024 bị áp dụng biện pháp tạm giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Lai Châu. Có mặt tại phiên tòa.
* Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Công H - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lai Châu.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Khoảng 11 giờ ngày 28/6/2024, Phàn A D đi bộ một mình từ Bệnh viện đa khoa tỉnh Lai Châu đến vỉa hè đối diện Bệnh viện thuộc tổ 27, phường P, thành phố C, tỉnh Lai Châu, mục đích tìm mua Heroine để sử dụng. Tại đây, D gặp một người đàn ông nhìn giống người nghiện ma túy, qua nói chuyện người đàn ông tự giới thiệu tên là T (D không rõ nhân thân lai lịch của T) và D đã hỏi mua Heroine của T. Qua trao đổi mua bán, D mua được của T 01 gói Heroine được gói bằng hai lớp, lớp bên ngoài là mảnh giấy giấy vệ sinh màu trắng, lớp bên trong là mảnh nilon màu trắng với giá 100.000 đồng. Sau đó, D cầm gói Heroine trong lòng bàn tay trái rồi đi bộ vào trong Bệnh viện đa khoa tỉnh Lai Châu để tìm chỗ sử dụng. Hồi 11 giờ 45 phút cùng ngày, khi D đang đi bộ trong Bệnh viện đa khoa tỉnh Lai Châu thì bị tổ công tác của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lai Châu phối hợp với Công an phường Đ, thành phố C phát hiện, bắt quả tang cùng vật chứng là 01 gói Heroine D đang tàng trữ để sử dụng.
Tại bản Kết luận giám định số 43/KLGĐ ngày 28/6/2024 của người giám định tư pháp theo vụ việc lĩnh vực kỹ thuật hình sự kết luận: số chất bột màu trắng thu giữ của Phàn A D trong quá trình bắt quả tang ngày 28/6/2024 có khối lượng là 0,27 gam.
Kết luận giám định số 882/KL-KTHS ngày 01/7/2024 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: mẫu chất bột, màu trắng gửi giám định là ma túy, loại Heroine.
Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo Phàn A D thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.
Các vấn đề khác của vụ án:
Theo lời khai của Phàn A D, nguồn gốc số Heroine nguồn gốc 0,27 gam Heroine bị thu giữ là mua của một người đàn ông tên là T tại khu vực vỉa hè đối diện Bệnh viện đa khoa tỉnh Lai Châu. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh tại khu vực vỉa vè đối diện Bệnh viện đa khoa tỉnh C không có camera an ninh quan sát. Ngoài tên là T, D không biết thông tin khác về nhân thân, lai lịch của người đàn ông này. Do đó cơ quan điều tra không đủ căn cứ điều tra làm rõ đối với đối tượng này.
Bản Cáo trạng số 61/CT - VKSTP ngày 08/10/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu đã truy tố Phàn A D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về các kết luận giám định và bản cáo trạng nêu trên.
Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh và đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Phàn A D từ 16 đến 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày 28/6/2024.
Không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Đối với 0,27 gam Heroine Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lai Châu lấy toàn bộ gửi giám định không hoàn lại mẫu vật nên không đề nghị xem xét, giải quyết. Vật chứng còn lại: đề nghị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
Tịch thu, T hủy 01 mảnh nilon màu trắng; 01 mảnh giấy màu trắng loại giấy vệ sinh.
Đề nghị Hội đồng xét xử miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo theo quy định của pháp luật.
- Bị cáo Phàn A D không có ý kiến tranh luận đối với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu.
- Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo: Bị cáo thành khẩn khai báo, sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, nên nhận thức pháp luật còn hạn chế. Bản thân bị cáo không có tiền án tiền sự, hơn nữa mới sử dụng ma túy, nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xem xét giảm hình phạt cho bị cáo, không áp dụng hình phạt bổ sung và miễn án phí cho bị cáo.
- Bị cáo không bổ sung luận cứ bào chữa và đề nghị Hội đồng xét xử miễn án phí cho bị cáo.
- Tranh luận của đại diện Viện kiểm sát nhân dân đối với đề nghị của người bào chữa cho bị cáo: Đối với đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, trước khi đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo, Viện kiểm sát đã xem xét tính chất, hành vi phạm tội cũng như nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ và hoàn cảnh gia đình của bị cáo, do đó mức hình phạt đối với bị cáo D mà Viện kiểm sát đề nghị là hoàn toàn phù hợp. Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm luận tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.
- Người bào chữa giữ nguyên luận cứ bào chữa, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.
Lời nói sau cùng: bị cáo Phàn A D nhận thức và ăn năn về hành vi vi phạm của mình, bị cáo là lao động chính trong gia đình nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lai Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Người bào chữa cho bị cáo đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội và tội danh:
Trên cơ sở lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các vật chứng thu giữ được, có đủ cơ sở để khẳng định:
Vào Hồi 11 giờ 45 phút ngày 28/6/2024, tại Bệnh viện đa khoa tỉnh C thuộc tổ 27, phường Đ, thành phố C, tỉnh Lai Châu, Phàn A D đang tàng trữ trái phép 0,27 gam Heroine mục đích để sử dụng thì bị tổ công tác của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố C phối hợp cùng Công an phường P, thành phố C phát hiện, bắt quả tang.
Bị cáo Phàn A D là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, có tính chất nghiêm trọng, xâm phạm đến chính sách quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự trị an trên địa bàn. Ý thức được điều đó nhưng để thỏa mãn nhu cầu nghiện hút của bản thân bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội.
Như vậy: Hành vi của bị cáo Phàn A D cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, điều khoản này quy định:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm […] c, Heroine, cocaine, Methamphetamine… có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam[...] 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, …hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.
[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:
Về nhân thân: Bị cáo D chưa có tiền án, tiền sự.
Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, nhận thức pháp luật hạn chế, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự theo đề nghị của người bào chữa cho bị cáo.
Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.
Trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để răn đe, giáo dục bị cáo, cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.
[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là lao động tự do công việc và thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng có giá trị để đảm bảo thi hành hình phạt bổ sung. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.
[5] Về vật chứng của vụ án:
Đối với 0,27 gam Heroine thu giữ của D, Cơ quan điều tra đã lấy toàn bộ gửi đi giám định không hoàn lại mẫu vật, nên Hội đồng xét xử không xem xét. Đối với 01 mảnh nilon màu trắng và 01 mảnh giấy màu trắng loại giấy vệ sinh là công cụ phạm tội, vật chứng không có giá trị xét cần tịch thu, T hủy theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
[6] Quan điểm xử lý trách nhiệm hình sự của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là đúng pháp luật nên cần chấp nhận.
[7] Về án phí: Gia đình bị cáo Phàn A D là người dân tộc thiểu số, sinh sống tại xã Nậm Cha, huyện Sìn Hồ là xã đặc biệt khó khăn theo Quyết định số 861/QĐ-TTg ngày 05/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ. Tại phiên tòa bị cáo cũng đề nghị Hội đồng xét xử miễn án phí cho bị cáo. Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106, Điều 135, Khoản 2 Điều 136, Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự và đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
[1]. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phàn A D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
[2]. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Phàn A D 16 (Mười sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/6/2024.
[3]. Về vật chứng của vụ án:
Tịch thu, T hủy 01 mảnh nilon màu trắng; 01 mảnh giấy màu trắng loại giấy vệ sinh.
(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng vào hồi 15 giờ 30 phút ngày 10/10/2024 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Lai Châu với Chi Cục thi hành án dân sự thành phố Lai Châu).
[4]. Về án phí: Bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp trên trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 02/2024/HS-ST
Số hiệu: | 02/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Lai Châu - Lai Châu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/10/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về