Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 02/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN BIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 02/2024/HS-ST NGÀY 24/01/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 43/2023/TLST-HS ngày 19 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2023/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 12 năm 2023 đối với bị cáo: Họ và tên: Nguyễn Văn T, sinh ngày 01/01/1991;

Tại huyện A, tỉnh Kiên Giang;

Nơi cư trú: Ấp T, xã T, huyện A, tỉnh Kiên Giang; Nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hoá 3/12;

Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam;

Con ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1966 và bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1965; Vợ tên Trần Thị Cẩm T, sinh năm 1998; con 02 người, lớn nhất sinh năm 2014, nhỏ nhất sinh năm 2015;

Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 08/01/2015 bị Công an xã T ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi gây rối trật tự công cộng; Ngày 23/01/2015 bị Công an huyện A ra quyết định xử phạt về hành vi xâm hại sức khoẻ của người khác; Ngày 23/3/2015 bị Uỷ ban nhân dân xã T ra quyết định áp về việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; Ngày 08/11/2016 bị Công an huyện A xử phạt 1.000.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý; Ngày 26/6/2017 bị Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo bản án hình sự phúc thẩm số 101/2017/HSPT, chấp hành xong ngày 01/8/2018.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 23/6/2023 cho đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 40, ngày 23/6/2023 nhận được tin báo, Cơ quan Cảnh sát Điều tra tội phạm về hình sự, kinh tế, ma túy Công an huyện An Biên phối hợp với Đồn biên phòng T và Công an xã Tây Yên tiến hành kiểm tra phát hiện bắt quả tang và thu giữ trên người của Nguyễn Văn T 02 bịch nylon được hàn kín có kích thước 3,2cm x 1,8cm và 2,8cm x 0,9cm để trong gói thuốc lá hiệu HERO bên trong có chứa các hạt tinh thể trong suốt không đồng nhất nghi là chất ma tuý nên tiến hành thu giữ và niêm phong theo quy định.

Trong quá trình điều tra Nguyễn Văn T khai nhận: Vào khoảng 08 giờ, ngày 23/6/2023, bị cáo đi đến cầu T thuộc huyện C, tỉnh Kiên Giang gặp người đàn ông chạy xe ôm (chưa xác định được nhân, lý lịch) nhờ mua 200.000 đồng ma tuý để sử dụng. Bị cáo chờ khoảng 30 phút thì người xe ôm đến giao 02 bịch ma tuý, sau đó bị cáo nhờ người tên Bổn (chưa xác định được nhân, lý lịch) chạy xe chở xuống tàu cá đang đậu ở xã V, huyện C, tỉnh Kiên Giang để đi đánh bắt. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, Trần Văn H lái phương tiện tàu cá KG94161TS đến Trạm kiểm soát Biên phòng T, khoảng 15 giờ 40 cùng ngày thì bị kiểm tra và bắt quả tang thu giữ tang vật theo quy định.

- Vật chứng của vụ án gồm: 02 bịch nylon được hàn kín có kích thước 3,2cm x 1,8cm và 2,8cm x 0,9cm có chứa các hạt tinh thể trong suốt không đồng nhất; 01 bịch nylon màu vàng, trong suốt, có quai cầm hai bên và 01 bao thuốc lá hiệu HERO bị rách.

Tại Kết luận giám định số 647/KL-KTHS ngày 01/7/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang kết luận: 02 bịch nylon được hàn kín được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine. Khối lượng mẫu gửi giám định là 0,3127 gam.

Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP, ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

* Tại bản Cáo trạng số 53/CT-VKS-HS ngày 12/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự tuyên xử bị cáo Nguyễn Văn T từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Về biện pháp tư pháp: Đề nghị áp dụng Điều 47, Điều 48 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy vật chứng theo lệnh nhập kho số 19 ngày 04/7/2023 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện An Biên.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện An Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện An Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi thực hiện tội phạm: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Do muốn có ma túy để sử dụng nên vào khoảng 08 giờ, ngày 23/6/2023, bị cáo đi đến cầu T gặp người đàn ông chạy xe ôm (chưa xác định được nhân, lý lịch) nhờ mua 200.000 đồng ma tuý để sử dụng. Sau khi nhận ma túy bị cáo nhờ người tên Bổn (chưa xác định được nhân, lý lịch) chạy xe chở xuống tàu cá KG94161TS đang đậu ở xã V để đi đánh bắt. Khoảng 13 giờ cùng ngày, Trần Văn H lái phương tiện tàu cá KG94161TS đến Trạm kiểm soát Biên phòng T đến 15 giờ 40 cùng ngày thì bị kiểm tra và bắt quả tang thu giữ tang vật theo quy định. Theo Kết luận giám định là chất ma túy loại Methamphetamine, có tổng khối lượng là 0,31279 gam. Từ những căn cứ nêu trên có đủ cơ sở để kết luận hành vi của bị cáo cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Viện kiểm sát nhân dân huyện An Biên truy tố bị cáo theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo là người có năng lực hành vi dân sự, ý thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất về ma túy. Nhưng vì muốn thỏa mãn cơn nghiện, bị cáo đã bất chấp pháp luật cố ý thực hiện tội phạm mà không suy nghĩ đến hậu quả, mua ma túy về tàng trữ để sử dụng. Bị cáo biết rõ tác hại của việc sử dụng trái phép sẽ gây ra nhiều hệ lụy cho xã hội, gây ảnh hưởng sức khỏe và còn là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm và hành vi vi phạm pháp luật khác, làm mất an ninh trật tự xã hội, gây bất bình trong nhân dân. Ngoài ra, bị cáo từng bị xét xử về tội “Cố ý gây thương tích”, 04 lần bị xử phạt vi phạm hành chính về các hành vi “Gây rối trật tự công cộng”, “Xâm hại sức khoẻ của người khác”, “Sử dụng trái phép chất ma tuý” và bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Đáng lẽ, sau khi chấp hành xong các hình phạt thì bị cáo phải sửa đổi, chấp hành các quy định của pháp luật nhưng bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội.

Do đó, cần xét xử bị cáo một mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội và cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người công dân tốt có ích cho xã hội. Đồng thời, qua xét xử nhằm tuyên truyền tác hại ma túy, ngăn ngừa chung loại tội phạm này trong xã hội. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cũng xem xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội để tuyên xử mức án phù hợp.

Đối với người bán ma túy cho Nguyễn Văn T không rõ nhân thân, lai lịch. Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện An Biên tiếp tục điều tra xác minh khi nào có đủ cơ sở sẽ tiến hành xử lý sau.

[3] Xét về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại tòa hôm nay, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn khai báo, tỏ ra biết ăn năn hối cải. Do đó, cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét khi quyết định hình phạt cho bị cáo.

[4] Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự. Tịch thu tiêu hủy: Các hạt tinh thể trong suốt trong 02 bịch nylon được hàn kín có kích thước 3,2cm x 1,8cm và 2,8cm x 0,9cm còn lại sau giám định có khối lượng là 0,3127 gam và bao gói đựng mẫu niêm phong trong 01 (Một) phong bì có ký hiệu vụ số 647/2023; 01 bịch nylon màu vàng, trong suốt, có quai cầm hai bên và 01 bao thuốc lá hiệu HERO bị rách.

[5] Hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T, 02 (Hai) năm tù, thời hạn tù được tính từ ngày 23/6/2023.

2. Về biện pháp tư pháp:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự. Tịch thu tiêu hủy: Các hạt tinh thể trong suốt trong 02 bịch nylon được hàn kín có kích thước 3,2cm x 1,8cm và 2,8cm x 0,9cm còn lại sau giám định có khối lượng là 0,3127 gam và bao gói đựng mẫu niêm phong trong 01 (Một) phong bì có ký hiệu vụ số 647/2023 và 01 bịch nylon màu vàng, trong suốt, có quai cầm hai bên; 01 bao thuốc lá hiệu HERO bị rách.

(Theo quyết định chuyển vật chứng số 38/QĐ/VKSHAB ngày 17/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang)

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 24/01/2024).

Trường hợp Bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành bản án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

32
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 02/2024/HS-ST

Số hiệu:02/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Biên - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:24/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về