Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 02/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẬP THẠCH, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 02/2022/HS-ST NGÀY 13/01/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 01 năm 2022, tại Trụ sở UBND xã V, huyện L, Tòa án nhân dân huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 85/2021/TLST-HS ngày 29 tháng 12 năm 2021. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 85/2021/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Minh T, sinh năm 1968 tại tỉnh Vĩnh Phúc; nơi cư trú: Thôn Đ, xã T, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 07/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Minh C (đã chết) và bà Trương Thị H; có vợ là Lê Thị B (đã ly hôn) và 03 con (con lớn nhất sinh năm 1990, con nhỏ nhất sinh năm 1994); tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

+ Tại Bản án số 53/HSST ngày 13/8/2008 Tòa án nhân dân huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 02 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. T chấp hành xong hình phạt tù ngày 15/10/2009 và các quyết định khác của bản án. Đến nay đã được xóa án tích.

+ Tại Bản án số 84/HSST ngày 31/12/2013 Tòa án nhân dân huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 03 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. T chấp hành xong hình phạt tù ngày 29/02/2016 và các quyết định khác của bản án. Đến nay đã được xóa án tích.

+ Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 33 ngày 28/03/2017 của Công an huyện Lập Thạch, xử phạt T 750.000 đồng do có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, T đã nộp phạt xong ngày 30/03/2017, đến nay đã được xóa tiền sự.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 25/10/2021, tạm giam từ ngày 29/10/2021 (có mặt)

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Minh T: Ông Lê Văn D, Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Vĩnh Phúc (có mặt);

- Người làm chứng:

+ Ông Trương Việt B, sinh năm 1968; trú tại: Thôn Đ, xã T, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt);

+ Anh Nguyễn Minh T1, sinh năm 1972; trú tại: Thôn Đ, xã T, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt);

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 22 giờ ngày 24/10/2021, Công an huyện Lập Thạch phát hiện bắt quả tang tại nhà ở của Nguyễn Minh T có 05 đối tượng có hành vi đánh bạc thắng thua bằng tiền gồm: Trương Việt B, Nguyễn Minh T1, Vũ Đức L, Nguyễn Văn Q, Trương Quang Kh. Quá trình bắt quả tang lực lượng công an thu giữ trên chiếu bạc và trên người các đối tượng tổng số tiền là 4.135.000đ và các công cụ dùng vào việc đánh bạc. Kiểm tra trên người Nguyễn Minh T chủ nhà Cơ quan công an phát hiện và thu giữ trong túi quần bên phải phía trước 01 gói bằng giấy bên trong có các chất bột màu trắng, T khai nhân đó là ma túy heroine của T (niêm phong trong phong bì thư dán kín ký hiệu A1); thu giữ tại túi quần đùi bên phải phía trong của T 01 túi nilon bên trong có các hạt dạng tinh thể màu trắng và một phần viên nén màu hồng, T khai nhận đó là ma túy tổng hợp của T (niêm phong trong phong bì thư dán kín ký hiệu A2); Thu giữ dưới gầm bàn uống nước phòng khách của gia đình T 01 cục chất dẻo màu đen, T khai nhận đó là thuốc phiện của T (niêm phong trong phong bì thư dán kín ký hiệu A3).

Cùng ngày, cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Lập Thạch ra lệnh khám xét khẩn cấp nơi ở đồ vật, tài sản đối với Nguyễn Minh T. Kết quả: Thu giữ tại nóc tủ quần áo trong buồng ngủ 01 túi nilon bên trong có 05 túi nilon màu trắng viền màu đỏ đều có chứa các chất bột, cục màu trắng, T khai nhận đó là ma túy heroine của T (05 gói ma túy được niêm phong trong phong bì thư dán kín ký hiệu A4); Thu giữ tại ngăn kệ ti vi trong phòng khách của T, 01 cân tiểu ly; Tạm giữ của T 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO; Tạm giữ tại gầm sập ngồi kê trong nhà T 01 vật kim loại có chiều dài 90cm, có gắn một miếng gỗ màu nâu, dạng hình khẩu súng.

Ngày 28/10/2021 Phòng kĩ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc có văn bản giám định số 2783/KLGĐ, kết luận:

- Chất bột, cục màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,1344 gam (không phảy một ba bốn bốn gam) loại heroine.

- Tinh thể dạng đá màu trắng và cục màu hồng của mẫu ký hiệu A2 gửi giám định là ma túy có khối lượng 0,2160 gam (không phảy hai một sáu mươi gam) loại Methamphetamine.

- Chất dẻo màu đen trong gói nilon và trong gói giấy tráng kim loại trắng của mẫu ký hiệu A3 gửi giám định là ma túy có tổng khối lượng 1,3985 gam (một phảy ba chín tám năm gam) loại thuốc phiện và các chế phẩm từ thuốc phiện.

- Chất bột, cục màu trắng của mẫu ký hiệu A4 gửi giám định là ma túycó khối lượng 9,4849 gam (Chín phảy bốn tám bốn chín gam) loại heroine.

Xác định khối lượng chất ma tuý Nguyễn Minh T phải chịu trách nhiệm là: 0,1344g heroine + 9,4849g heroine + 0,2160g methamphetamine thu trên người và tại nhà Nguyễn Minh T = 9,8353g và 1,3985g thuốc phiện và các chế phẩm từ thuốc phiện. Tính tổng khối lượng của ba chất ma tuý Heroine, Methamphetamine và thuốc phiện của Nguyễn Minh T so với quy định tại khoản 3 Điều 249 BLHS là 32,923%.

Ngày 07/11/2021 phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc văn bản giám định số 2899A/KLGÐ, Kết luận: Mẫu vật gửi giám định là súng săn (súng hơi) theo quy định tại khoản 3 Điều 3 Luật số 14/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nỗ và công cụ hỗ trợ thì khẩu súng trên là loại súng hơi. Tại thời điểm giám định, khẩu súng không hoạt động được (không bắn được đạn, do khí nén trong bình không còn).

Đối với Trương Việt B, Nguyễn Minh T1, Vũ Đức L, Trương Quang Kh và Nguyễn Văn Q có hành vi đánh bạc và Nguyễn Minh T (chủ nhà) do có nhiều tình tiết phức tạp nên Cơ quan điều tra đã tách ra xử lý trong vụ án khác.

Về nguồn gốc ma tuý Heroine trên T khai mua của một người đàn ông tên Tr ở thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc từ ngày 17/10/2021 với giá 20.000.000 đồng, sau đó Tr cho thêm T 01 gói Methamphetamine và một ít thuốc phiện mục đích T đem về cất giấu không cho ai biết, mục đích để sử dụng.

Vật chứng cơ quan điều tra thu giữ: Mẫu A1 = 0,1344g heroine, cơ quan giám định hoàn lại mẫu = 0,1165g; Mẫu A2 = 0,2160g methamphetamine cơ quan giám định hoàn lại mẫu = 0,1940g; Mẫu A3 = 1,3985g thuốc phiện và các chế phẩm từ thuốc phiện, cơ quan giám định hoàn lại mẫu = 1,3701g, Mẫu A4 = 9,4849g heroine, cơ quan giám định hoàn lại mẫu = 9,3767g;

Đối với 01 cân tiểu ly thu giữ của T quá trình điều tra T khai nhận do có một người bạn cho T từ lâu, T sử dụng cân tiểu ly này để chia nhỏ ma túy ra mục đích để sử dụng.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO quá trình điều tra xác định là tài sản của T.

Đối với 01 khẩu súng săn (súng hơi) tạm giữ tại nhà Nguyễn Minh T, quá trình điều tra T và gia đình không khai nhận, khi thu giữ mới biết, do hôm đó nhà T có việc gia đình có rất nhiều người ra vào nên không xác định được là súng của ai.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Minh T đã thành khẩn khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình như nêu trên.

Bản Cáo trạng số 02/CT-VKS ngày 21/12/2021, Viện kiểm sát nhân huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố bị cáo Nguyễn Minh T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Minh T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã truy tố. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với Nguyễn Minh T đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", áp dụng điểm n khoản 2 Điều 249; điểm s, p khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt: Nguyễn Minh T từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù, không phạt bổ sung, đề nghị xử lý vật chứng theo quy định.

Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như luận tội của đại diện Viện kiểm sát.

Người bào chữa cho bị cáo T phát biểu: Bị cáo T bị truy tố về tội tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng người đúng tội. Tuy nhiên khi phạm tội bị cáo là người có học vấn thấp, bị người khác rủ rê nghiện ma túy, bị cáo là người khuyết tật nặng nên bị cáo mới mua ma túy về để sử dụng chứ không có mục đích gì khác. Đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo mức án thấp nhất để bị cáo yên tâm cải tạo.

Bị cáo Nguyễn Minh T nói lời sau cùng: Mong Hội đồng xét xử cho bị cáo mức án thấp nhất để bị cáo sớm về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Lập Thạch, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lập Thạch, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Minh T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân huyện Lập Thạch đã truy tố. Xét lời nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, biên bản phạm tội quả tang, biên bản thu giữ vật chứng, kết luận giám định…. và những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 22 giờ 00 phút ngày 24/10/2021, tại nhà của Nguyễn Minh T ở Thôn Đ, xã T, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc, Nguyễn Minh T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy thì bị Công an phát hiện bắt quả tang, thu giữ: 01 gói ma túy có khối lượng 0,1344 gam loại Heroine, 01 gói ma túy có khối lượng 0,2160 gam loại Methamphetamine, 01 gói ma túy có khối lượng 1,3985 gam loại thuốc phiện và các chế phẩm từ thuốc phiên, 05 gói ma túy có khối lượng 9,4849 gam loại Heroine.

Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy do bị cáo Nguyễn Minh T thực hiện đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự. Xét về khối lượng và các loại ma túy mà Nguyễn Minh T đã tàng trữ thì, hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Minh T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.

…...n) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng ... của các chất đó tương đương với khối lượng ... chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm e đến điểm m khoản này”.

Xét tính chất của vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý Nhà nước về ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương và gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Ma tuý là tệ nạn cần phải loại bỏ ra khỏi đời sống xã hội vì nó làm xói mòn đạo đức, lối sống của một bộ phận thanh niên, ảnh hưởng đến sức khoẻ con người và là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Vì vậy, cần xử phạt nghiêm nhằm mục đích giáo dục riêng, phòng ngừa chung góp phần phục vụ việc giữ vững an ninh chính trị tại địa phương và làm gương cho người khác.

[3]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bản thân bị cáo bị cáo đã từng bị đưa ra xét xử nhiều lần đó là: Ngày 13/8/2008, Toà án nhân dân huyện Lập Thạch xử phạt 02 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; ngày 31/12/2013, Toà án nhân dân huyện Lập Thạch xử phạt 03 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; ngày 28/3/2017, Công an huyện Lập Thạch xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Các lần phạm tội này và hành vi vi phạm hành chính của bị cáo mặc dù đã chấp hành xong và đã được xóa án tích, xóa tiền sự nhưng nay lại tiếp thực hiện hành vi phạm tội điều đó chứng tỏ bị cáo là người luôn không chấp hành pháp luật. Do đó cần áp dụng hình phạt tù thật nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho xã hội. Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo luôn thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, bị cáo là người khuyết tật nặng nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Từ những phân tích, đánh giá nêu trên thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù một thời gian phù hợp mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm nói chung.

[4]. Về việc áp dụng hình phạt bổ sung: Việc tàng trữ trái phép chất ma túy mà bị cáo Nguyễn Minh T thực hiện là để bị cáo sử dụng ma túy, chưa đem nguồn lợi gì cho gia đình, bản thân bị cáo không có việc làm ổn định, không có tài sản gì lớn nên không cần thiết phải phạt bị cáo một khoản tiền sung quỹ Nhà nước.

[5]. Đối với Trương Việt B, Nguyễn Minh T1, Vũ Đức L, Trương Quang Kh và Nguyễn Văn Q có hành vi đánh bạc và Nguyễn Minh T (chủ nhà) đã được Cơ quan điều tra đã tách ra để điều tra trong vụ án khác.

Về nguồn gốc ma tuý Heroine trên T khai mua của một người đàn ông tên Tr ở thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc từ ngày 17/10/2021. Do T không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể của người này nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh làm rõ để xử lý.

[6]. Về xử lý vật chứng:

Mẫu hoàn lại sau giám định gồm: Mẫu A1 = 0,1165g; Mẫu A2 = 0,1940g; Mẫu A3 = 1,3701g, Mẫu A4 = 9,3767g là vật Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy;

Đối với 01 cân tiểu ly thu giữ của T xác định T sử dụng để chia nhỏ ma túy ra để sử dụng, do vậy cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO là tài sản của T, không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Đối với 01 khẩu súng săn (súng hơi) tạm giữ tại nhà Nguyễn Minh T, không xác định được là súng của ai do vậy không có căn cứ để xử lý, Cơ quan điều tra đã bàn giao cho đội Cảnh sát về quản lý hành chính để xử lý theo quy định là phù hợp.

[7]. Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Minh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm n khoản 2 Điều 249, điểm p, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Minh T 07 (Bảy) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 25/10/2021. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

- Xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1, 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: A1 = 0,1165g, A2 = 0,1940g, A3 = 1,3701g, A4 = 9,3767g mẫu vật và bao gói hoàn lại sau giám định; 01 cân tiểu ly.

Trả lại Nguyễn Minh T 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/12/2021 giữa Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lập Thạch và Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lập Thạch).

- Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Nguyễn Minh T phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

86
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 02/2022/HS-ST

Số hiệu:02/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lập Thạch - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:13/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về