Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 01/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NINH KIỀU, THÀNH PHỐ CN THƠ

BẢN ÁN 01/2024/HS-ST NGÀY 05/01/2024 VỀ TỘI TÀNG TR TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Vào ngày 05 tháng 01 năm 2024, lại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 215/2023/HSST, ngày 29 tháng 11 năm 2023 đối với các bị cáo:

1. Bùi Hoàng H; sinh năm 2004; Giới tính: Nam; Nơi sinh: Sóc Trăng; Nơi ĐKTT: Ấp A, xã A, huyện K, tỉnh Sóc Trăng; Chỗ ở: Ấp A, xã A, huyện K, tỉnh Sóc Trăng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Làm vườn; Họ tên cha: Bùi Quang R, sinh năm: 1978; Họ tên mẹ: Nguyễn Thị Bạch Y, sinh năm: 1982; Anh chị em ruột: 01 người, sinh năm 2009; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Chưa;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 07/7/2023, đến ngày 16/7/2023 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an quận N. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Huỳnh Giang P, sinh năm 1994; Giới tính: Nam; Nơi sinh: Sóc Trăng; Nơi ĐKTT: Ấp A, xã A, huyện K, tỉnh Sóc Trăng; Chỗ ở: Ấp A, xã A, huyện K, tỉnh Sóc Trăng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 09/12; Nghề nghiệp: không; Họ tên cha: Huỳnh Kim N, sinh năm: 1968; Họ tên mẹ: Bùi Thị H1, sinh năm: 1982; chị em ruột: không; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Chưa;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 07/7/2023, đến ngày 16/7/2023 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an quận N. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

3. Lê Gia K; Sinh năm 2004; Giới tính: Nam; Nơi sinh: Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi ĐKTT: A, M, phường T, Quận G, thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: B, N, phường X, quận N, thành phố Cần Thơ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: không; Họ tên cha: Lê Hồng Á, sinh năm: 1977; Họ tên mẹ: Đào Thị N1, sinh năm: 1978; Anh chị em ruột: 01 người, sinh năm 2008; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Chưa;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 07/7/2023, đến ngày 16/7/2023 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an quận N. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1/ Bà Trịnh Thị Thúy V, sinh năm 2002.

Địa chỉ: Ấp B, xã V, thành phố V, tỉnh Hậu Giang.

2/ Ông Huỳnh Trọng P1, sinh năm 1999.

Địa chỉ: Ấp A, xã A, huyện K, tỉnh Sóc Trăng.

3/ Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 2001.

Địa chỉ: Ấp A, xã A, huyện K, tỉnh Sóc Trăng.

4/ Ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1966 Địa chỉ: Ấp A, xã A, huyện K, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tối ngày 06/7/2023, Bùi Hoàng H và H Pháp sau khi đã uống rượu, bia ở huyện K, tỉnh Sóc Trăng, thì rủ nhau thuê xe của anh Huỳnh Trọng P1 đến thành phố Cần Thơ để hát Karaoke, P rủ thêm bạn gái là Trịnh Thị Thúy V cùng đi; khi gần đến Cần Thơ, H bàn với P mua ma túy để sử dụng, Pháp đồng ý. H liên hệ với Lê Gia K rủ K cùng đi hát Karaoke, đồng thời nhờ K đặt mua giùm 1/2 hộp năm Ketamine và 02 viên thuốc lắc và đặt phòng Karaoke, K đồng ý. Khi xe đến thành phố Cần Thơ, đón thêm K cùng đi đến Karaoke Q, cả nhóm lên phòng 306; tại đây, K liên hệ mua giùm H 1/2 hộp năm Ketamine và 02 viên thuốc lắc giá 3.500.000 đồng, khi đối tượng bán mang ma túy đến giao thì P trả tiền. H, P và K cùng nhau sử dụng ma túy; trong lúc sử dụng ma túy H gọi điện thoại rủ Nguyễn Văn T (bạn của H) lại hát Karaoke, T trả lời bận việc nên không chắc đến. Sau khi sử dụng ma túy và do trước đó đã uống nhiều rượu bia nên H và P ngã ra ghế trong phòng hát ngủ, K cũng say ma túy và ngồi đánh nhạc; nhìn thấy H, P và K say ma túy nằm ngủ, Thúy V đến bàn lấy đĩa sứ có chất bột màu trắng hít thử thì bị khó thở nên không sử dụng và ngồi xem điện thoại. Đến hơn 01 giờ ngày 07/7/2023, Nguyễn Văn T đến phòng 306 Karaoke Q, nhìn thấy đĩa ma túy trên bàn nên lấy sử dụng, do sau khi hít 01 đường ma túy Ketamine thì bị mệt nên T không sử dụng nữa và ngồi lại trong phòng. Đến khoảng 01 giờ 30 phút, lực lượng Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an thành phố C cùng Công an quận N đến khám xét phòng 306, trong phòng lúc này có thêm Huỳnh Trọng P1 (tài xế) chờ đưa H, P và V về lại Sóc Trăng; qua khám xét, phát hiện trong phòng có ma túy nên lực lượng Công an đã lập biên bản thu giữ những vật chứng sau:

- 01 phần viên nén màu xanh thu giữ trên nền nhà trong phòng 306 Karaoke Queen, được để vào gói nilon nẹp miệng, niêm phong theo quy định;

- Chất bột màu trắng thu trên dĩa sứ được thu giữ vào gói nilon không màu, nẹp miệng, niêm phong theo quy định;

- 01 tờ tiền Việt Nam loại Polime mệnh giá 10.000 đồng cuộn lại, 01 thẻ nhựa ATM Ngân hàng Al, 01 đĩa sứ tròn màu trắng, 02 (hai) đèn chiếu.

- 01 điện thoại di động Iphone 12 Pro max màu xanh dương của Lê Gia K; 01 điện thoại di động Iphone 14 Pro Max màu tím của Huỳnh Giang P; 01 điện thoại di động Iphone 12 Pro Max màu xanh dương của Bùi Hoàng H; 01 điện thoại di động Iphone 11 Pro Max màu đen của Huỳnh Trọng P1, 01 điện thoại di động Iphone XS Max màu đen của Nguyễn Văn T, 01 điện thoại di động Iphone 12 màu đen của Trịnh Thị Thúy V.

Tại Kết luận giám định số 235/KL-KTHS ngày 14/7/2023 của Phòng K1 - Công an thành phố C kết luận:

- 01 phần viên nén màu xanh (mẫu M1), gửi giám định là ma túy, loại MDMA, khối lượng 0,1235 gam - Chất bột màu trắng thu trên dĩa sứ được thu giữ vào gói nilon không màu, nẹp miệng (mẫu M2), gửi giám định là ma túy, loại Ketamine, có khối lượng 0,5048 gam (bút lục: 92).

Quá trình điều tra, hai bị cáo Bùi Hoàng H và Huỳnh Giang P khai nhận cả hai cùng thống nhất hùn tiền mua ma túy để sử dụng khi hát karaoke, tiền ma túy và tiền phòng sẽ do P ứng trả trước, sau đó chia đều cho cả hai; H trực tiếp liên hệ với K (Pháp không quen K) nhờ K mua giùm ma túy và đặt phòng Karaoke, sau khi mua được ma túy thì H, P và K cùng nhau sử dụng, do đã uống nhiều bia rượu và sử dụng thêm ma túy nên hai bị cáo bị say và ngủ. H và P không rủ Trịnh Thị Thúy V sử dụng ma túy; đối với Nguyễn Văn T khi H rủ đến hát karaoke thì T đã từ chối nên khi T đến Phòng 306 H không biết. Hai bị cáo không rủ V và T sử dụng ma túy, việc V và T sử dụng ma túy hai bị cáo không biết.

Bị cáo Lê Gia K khai nhận: bị cáo chỉ quen biết Bùi Hoàng H, tối ngày 06/7/2023, bị cáo H liên hệ nhờ bị cáo mua giúp 1/2 hộp năm Ketamine và 02 viên thuốc lắc và rủ cùng đi Karaoke, bị cáo đồng ý; đến phòng 306 Karaoke Q, bị cáo liên hệ đối tượng tên S - nick Z “Chin đồ” để mua số lượng ma túy như H yêu cầu, khi ma túy được giao đến phòng 306, thì bạn của H là P là người trả tiền; sau đó chỉ có bị can, H và P sử dụng ma túy, không thấy V sử dụng và các bị cáo cũng không rủ V sử dụng ma túy, bị cáo chỉ nghe H nói là có rủ Nguyễn Văn T lại nhưng không rõ nội dung H rủ. Khi T lại bị cáo đã say ma túy và lo chơi nhạc nên không chú ý đến; bị cáo không biết T và V có sử dụng ma túy. Khi lực lượng Công an đến phòng 306 kiểm tra, thu giữ số Ketamine còn trên dĩa sứ và 01 phần viên thuốc lắc màu xanh mà bị can, H và P sử dụng còn lại.

Trịnh Thị Thúy V khai, V là bạn của Huỳnh Giang P, tối ngày 06/7/2023 V đi cùng P và H đến cần Thơ hát Karaoke. Sau khi đến phòng 306 Karaoke Q vào phòng vệ sinh một lúc sau ra đã thấy trên đĩa sứ có ma túy và nhìn thấy, H, P và K sử dụng, không rủ V sử dụng. Do muốn thử nên V đã tự ý lấy ma túy trên dĩa sử dụng một ít thì thấy khó chịu nên không sử dụng tiếp mà ngồi xem điện thoại; việc V sử dụng ma túy thì P, H và K không biết. V cũng không quen biết Nguyễn Văn T, chỉ thấy T vào phòng 306 một lúc thì có lực lượng Công an đến phòng kiểm tra, phát hiện có ma túy của H, P và K.

Nguyễn Văn T khai: tối ngày 06/7/2023 H rủ lại phòng 306 Karaoke Queen để hát Karaoke, do có việc nên T có ý từ chối và đến hơn 01 giờ ngày 07/7/2023 T mới đến phòng 306 Karaoke Q, khi T đến phòng 306 T chỉ quen H và K, riêng P, V và Phúc T1 không biết; lúc này H đã mệt không biết T1 đến, K thì đang đánh nhạc, T1 thấy dĩa sứ trên bàn có ma túy nên tự ý sử dụng 01 hơi và ngồi chơi một lúc thì bị Công an kiểm tra thu số Ketamine còn trên dĩa sứ và 01 phần viên thuốc lắc màu xanh. Việc T1 sử dụng ma túy thì H, K không biết và không ai rủ T1 sử dụng.

Cơ quan điều tra đã chuyển xử phạt hành chính đối với Trịnh Thị Thúy V và Nguyễn Văn T về hành vi sử dụng trái phép ma túy. Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng, trả lại 01 điện thoại di động Iphone XS Max màu đen và 01 xe mô tô biển số 83C1- 596.xx cho Nguyễn Văn T, 01 điện thoại di động Iphone 12 màu đen cho Trịnh Thị Thúy V.

Đối với đối tượng tên S - nick z “Chin đồ”, bị cáo Lê Gia K liên hệ mua trái phép ma túy, do K không biết rõ họ tên thật và địa chỉ. Kết quả tra cứu tài khoản bị cáo P chuyển trả tiền ma túy, không thể hiện có nhận số tiền 3.500.000 đồng từ Huỳnh Giang P nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ, xử lý sau khi đủ căn cứ.

Đối với Huỳnh Trọng P1 là tài xế điều khiển xe ô tô 83A- 146.xx do bị cáo Bùi Quang H2 thuê đi từ K, Sóc Trăng đến cần Thơ, khi đến Karaoke Q, P1 ngủ trông xe, do khuya nên P1 lên phòng 306 của H2 hỏi khi nào về và ngồi chơi một lúc thì bị Công an kiểm tra thu số ma túy trong phòng, bản thân P1 không biết ma túy của ai và không tham gia sử dụng ma túy (xét nghiệm âm tính). Cơ quan điều tra đã trả lại cho Huỳnh Trọng P1 01 điện thoại di động Iphone 11 Pro Max màu đen; ngoài ra còn trả cho ông Nguyễn Văn L01 xe ô tô 83A- 146.xx.

Tại bản Cáo trạng số: 231/CT-VKSNK, ngày 20 tháng 11 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân quận N truy tố các bị cáo Bùi Hoàng H, Huỳnh Giang P và Lê Gia K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên cáo trạng truy tố, không bổ sung gì thêm, đồng thời phân tích tính chất, mức độ, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với các bị cáo và đề nghị áp dụng điểm i Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Riêng bị cáo K có ông ngoại là Đào Đức V1 có công với cách mạng nhận huân chương kháng chiến hạng Nhất, N2, Ba trong kháng chiến chống Mỹ cứu Nước nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Về trách nhiệm hình sự:

+ Xử phạt bị cáo Bùi Hoàng H từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù;

+ Xử phạt bị cáo Huỳnh Giang P từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù;

+ Xử phạt bị cáo Lê Gia K từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù;

- Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

+ Đề nghị tịch thu tiêu hủy: 02 gói niêm phong số 235G1, 235G2/KL-KTHS ngày 14/7/2023 của Phòng K1 - Công an thành phố C; 01 thẻ nhựa ATM Ngân hàng A1; 01 đĩa sứ tròn màu trắng;

+ Đề nghị tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động Iphone 12 Pro max màu xanh dương của Lê Gia K, kèm sim; 01 điện thoại di động Iphone 14 Pro Max màu tím của Huỳnh Giang P, kèm sim; 01 điện thoại di động Iphone 12 Pro Max màu xanh dương của Bùi Hoàng H, kèm sim; 01 tờ tiền Việt Nam loại Polime mệnh giá 10.000 đồng.

(Vật chứng, tài sản theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 23/11/2023 và Quyết định chuyển vật chứng số 173/QĐ-VKSNK, ngày 20/11/2023).

Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tại lời nói sau cùng các bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi của mình như nội dung Bản Cáo trạng đã truy tố. Đối chiếu lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Xét thấy Bùi Hoàng H, Huỳnh Giang P và Lê Gia K nhận thức được tác hại của ma túy và hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng ngày 06/7/2023 các bị cáo vẫn mua, tàng trữ trái phép 0,1235 gam ma túy loại MDMA và 0,5048 gam ma túy loại Ketamine để sử dụng, đến khoảng 01 giờ 30 phút ngày 07/7/2023 lực lượng Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an thành phố C cùng Công an quận N đến khám xét phòng 306 bị phát hiện, thu giữ ma túy còn lại chưa sử dụng hết.

Theo Kết luận giám định số 235/KL-KTHS ngày 14/7/2023 của Phòng K1 - Công an thành phố C kết luận: 01 phần viên nén màu xanh (mẫu M1), gửi giám định là ma túy, loại MDMA, khối lượng 0,1235 gam; Chất bột màu trắng thu trên dĩa sứ được thu giữ vào gói nilon không màu, nẹp miệng (mẫu M2), gửi giám định là ma túy, loại Ketamine, có khối lượng 0,5048 gam (bút lục: 92).

Vì vậy, Viện kiểm sát truy tố các bị cáo tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét thấy, các bị cáo là người đủ năng lực hành vi dân sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nên phải chịu hậu quả pháp lý do hành vi phạm tội gây ra. Hành vi của các bị cáo xâm phạm trực đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về ma túy. Mặc dù bị cáo nhận thức được việc tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn ngang nhiên tàng trữ trái phép chất ma tuý và cho người khác cùng sử dụng ma túy bất chấp những quy định của pháp luật, bất chấp mọi hậu quả xảy ra kể cả việc trừng trị của pháp luật, tạo điều kiện cho các tệ nạn xã hội phát triển làm ảnh hưởng đến việc giảm sút sức lao động trong toàn xã hội.

Vì vậy, cần thiết phải có mức hình phạt thật nghiêm khắc đối với bị cáo và cần thiết phải có một khoảng thời gian dài cách ly bị cáo ra khỏi xã hội nhằm tạo điều kiện cho bị cáo từ bỏ con đường nghiện ngập và tiếp tục học tập phấn đấu trở thành người tốt hơn sau này biết tôn trọng pháp luật đồng thời cũng nhằm răn đe, phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về nhân thân các bị cáo và các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Nhận thấy các bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Về tình tiết giảm nhẹ các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Riêng bị cáo K có xác nhận giúp cơ quan chức năng trong một vụ án khác nên hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, có ông ngoại là Đào Đức V1 có công với cách mạng nhận huân chương kháng chiến hạng Nhất, N2, Ba trong kháng chiến chống Mỹ cứu Nước nên cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ theo Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Do đó, áp dụng Điều 54 đối với bị cáo K.

Vì vậy, mức hình phạt mà Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo là phù hợp và có cơ sở chấp nhận.

[5] Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy: 02 gói niêm phong số 235G1, 235G2/KL-KTHS ngày 14/7/2023 của Phòng KI - Công an thành phố C; 01 thẻ nhựa ATM Ngân hàng AI; 01 đĩa sứ tròn màu trắng;

Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động Iphone 12 Pro max màu xanh dương của Lê Gia K, kèm sim; 01 điện thoại di động Iphone 14 Pro Max màu tím của Huỳnh Giang P, kèm sim; 01 điện thoại di động Iphone 12 Pro Max màu xanh dương của Bùi Hoàng H, kèm sim; 01 tờ tiền Việt Nam loại Polime mệnh giá 10.000 đồng (theo Biên lai thu số 0000455 ngày 22/11/2023).

Ghi nhận Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng, trả lại 01 điện thoại di động Iphone sx Max màu đen và 01 xe mô tô biển số 83C1- 596.xx cho Nguyễn Văn T, 01 điện thoại di động Iphone 12 màu đen cho Trịnh Thị Thúy V, cho Huỳnh Trọng P1 01 điện thoại di động Iphone 11 Pro Max màu đen; ngoài ra còn trả cho ông Nguyễn Văn L 01 xe ô tô 83A- 146.xx.

[6] Cơ quan điều tra đã chuyển xử phạt hành chính đối với Trịnh Thị Thúy V và Nguyễn Văn T về hành vi sử dụng trái phép ma túy.

Đối với đối tượng tên S - nick z “Chin đồ”, bị cáo Lê Gia K liên hệ mua trái phép ma túy, do K không biết rõ họ tên thật và địa chỉ. Kết quả tra cứu tài khoản bị cáo P chuyển trả tiền ma túy, không thể hiện có nhận số tiền 3.500.000 đồng từ Huỳnh Giang P nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ, xử lý sau khi đủ căn cứ.

Đối với Huỳnh Trọng P1 là tài xế điều khiển xe ô tô 83A- 146.xx do bị cáo Bùi Quang H2 thuê đi từ K, Sóc Trăng đến cần Thơ, khi đến Karaoke Q, P1 ngủ trông xe, do khuya nên P1 lên phòng 306 của H2 hỏi khi nào về và ngồi chơi một lúc thì bị Công an kiểm tra thu số ma túy trong phòng, bản thân P1 không biết ma túy của ai và không tham gia sử dụng ma túy (xét nghiệm âm tính) nên không xử lý.

[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1.1. Căn cứ vào: Điểm i Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 17 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:

- Tuyên bố: Bị cáo Bùi Hoàng H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

- Xử phạt: Bị cáo Bùi Hoàng H 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù của bị cáo tính từ ngày 07/7/2023;

1.2. Căn cứ vào: Điểm i Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 17 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:

- Tuyên bố: Bị cáo Huỳnh Giang P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

- Xử phạt Bị cáo Huỳnh Giang P 01 (Một) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù của bị cáo tính từ ngày 07/7/2023;

1.3. Căn cứ vào: Điểm i Khoản 1 Điều 249; Điểm s; điểm t khoản 1 Điều 51; Điều 54; Điều 38, Điều 17 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

- Tuyên bố: Bị cáo Lê Gia K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

- Xử phạt: Bị cáo Lê Gia K 09 (Chín) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù của bị cáo tính từ ngày 07/7/2023;

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 02 gói niêm phong số 235G1, 235G2/KL-KTHS ngày 14/7/2023 của Phòng K1 - Công an thành phố C;

+ 01 thẻ nhựa;

+ 01 đĩa sứ tròn màu trắng;

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước:

+ 01 điện thoại di động Iphone 12 Pro max màu xanh dương, số máy: MG913LL/A, số IMEI: 357104916427262 (Đã qua sử dụng); Kèm sim số 0912 994 9xx;

+ 01 điện thoại di động Iphone 12 Pro Max màu xanh dương, số máy: 5GDA3ZD/A, số IMEI: 35098186300023 (Đã qua sử dụng); Kèm sim số 0385 223 xxx;

+ 01 điện thoại di động Iphone 14 Pro Max màu tím, s ố máy: MQ9X3VN/A, số IMEI: 357711913874427 ( Đã qua sử dụng); Kèm sim số 0787 760 xxx;

+ 01 tờ tiền Việt Nam loại Polime mệnh giá 10.000 đồng (theo Biên lai thu số 0000455 ngày 22/11/2023).

(Vật chứng, tài sản theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 23/11/2023 và Quyết định chuyển vật chứng số 173/QĐ-VKSNK, ngày 20/11/2023).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Mỗi bị cáo Bùi Hoàng H, Huỳnh Giang P và Lê Gia K phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

4. Về kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự được quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

15
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 01/2024/HS-ST

Số hiệu:01/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ninh Kiều - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về