Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 01/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN LÃNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 01/2024/HS-ST NGÀY 05/01/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 05 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 115/2023/TLST-HS ngày 14 tháng 12 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 116/2023/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 12 năm 2023, đối với bị cáo:

Hoàng Thế K1, sinh ngày 06 tháng 7 năm 1976 tại huyện V, tỉnh Lạng Sơn; nơi cư trú: Khu *, thị trấn N1, huyện V, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn S1 và bà Phùng Thị Kim S2; có vợ là Bùi Thu H1 (đã ly hôn) và có 01 con sinh năm 2010; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Chưa bị kết án, chưa bị xử lý vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật; bị bắt, tạm giữ từ ngày 20/9/2023, tạm giam từ ngày 23/9/2023 đến nay; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Trần Thị Hồng N2, sinh năm 1993; nơi cư trú: Số nhà *, đường Trần Quang K2, phường C, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.

- Người chứng kiến: Anh Hà Anh T1; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 20/9/2023, Hoàng Thế K1 một mình điều khiển xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA JUPITER biển kiểm soát 12K8 – 03**, đi từ nhà đến xã T2, huyện V, tỉnh Lạng Sơn với mục đích tìm mua ma túy để sử dụng. Khi đến đoạn thôn H2, xã T2, huyện V, tỉnh Lạng Sơn, Hoàng Thế K1 gặp và hỏi mua ma túy với một người đàn ông khoảng 35 tuổi (không biết họ tên, địa chỉ); sau khi trao đổi Hoàng Thế K1 đã mua với người này 200.000 (hai trăm nghìn) đồng được 01 (một) gói ma túy Heroine. Hoàng Thế K1 nhận lấy gói ma túy, cất giấu vào trong yên xe mô tô và điều khiển xe đi về nhà. Khi đi đến hang chui thuộc thôn H2, xã T2, huyện V, tỉnh Lạng Sơn, thì bị tổ công tác của Công an huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn yêu cầu dừng xe, kiểm tra; Hoàng Thế K1 tự giác giao nộp gói ma túy; tổ công tác đã lập biên bản theo quy định.

Tổ công tác đã thu giữ của Hoàng Thế K1: 01 (một) gói nilon màu trắng, bên trong gói nilon có 01 (một) gói giấy chứa cục bột màu trắng nghi là chất ma túy Heroine, được niêm phong trong 01 (một) phong bì có chữ “QT Hoàng Thế K1” và tạm giữ 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA JUPITER biển kiểm soát 12K8 – 03**.

Tại Kết luận giám định số 974/KL-KTHS ngày 22/9/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: “Chất cục bột màu trắng gửi giám định là chất ma túy Heroin, có khối lượng 0,157 gam (đã trừ bì)”. (Tại Công văn số 87/PC09 ngày 17/3/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn khẳng định: “… chất ma túy được gọi là Heroine hoặc Heroin đều là tên gọi của cùng một chất ma túy có tên khoa học là Diacetylmorphine”).

Quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô là của chị Trần Thị Hồng N2. Ngày 30/11/2023, Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng, trả lại chiếc xe mô tô cho chị Trần Thị Hồng N2.

Tại Cơ quan điều tra và trong đơn xin xét xử vắng mặt chị Trần Thị Hồng N2 trình bày: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA JUPITER biển kiểm soát 12K8 – 03** là của chị; chị cho bị cáo mượn xe để đi lại giải quyết công việc; chị không biết Hoàng Thế K1 sử dụng xe để đi mua ma túy; chị đã được trả lại chiếc xe và không có yêu cầu gì.

Tại Cơ quan điều tra, anh Hà Anh T1 khai được chứng kiến việc bắt người phạm tội quả tang, niêm phong tang vật theo đúng quy định của pháp luật.

Tại Cáo trạng số 01/CT-VKS ngày 13/12/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Hoàng Thế K1 về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa: Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của bản thân như nội dung Cáo trạng đã truy tố; bị cáo thừa nhận bản thân tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng là vi phạm pháp luật. Chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA JUPITER biển kiểm soát 12K8 – 03** là của chị Trần Thị Hồng N1, chị Trần Thị Hồng N1 không biết bị cáo sử dụng xe để đi mua ma túy, cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe cho chị Trần Thị Hồng N1, bị cáo nhất trí và không có ý kiến gì.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Hoàng Thế K1 phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Hoàng Thế K1 từ 15 tháng đến 18 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; tịch thu tiêu hủy phong bì chứa ma túy còn lại sau giám định và các vỏ bao gói; bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Tại lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị được hưởng mức án nhẹ nhất theo đề nghị của Viện kiểm sát để sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của những người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đã được triệu tập hợp lệ, vắng mặt tại phiên tòa, có đơn xin xét xử vắng mặt, đã có lời khai trong hồ sơ; căn cứ theo khoản 1 Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.

[3] Về hành vi của bị cáo: Khoảng 12 giờ 50 phút ngày 20/9/2023, tổ công tác Công an huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn phát hiện bắt quả tang Hoàng Thế K1 đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,157 gam chất ma túy Heroine với mục đích để sử dụng. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, phù hợp với vật chứng đã thu giữ được, Kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi bị cáo thực hiện là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Hoàng Thế K1 phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[4] Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội thấy rằng: Hành vi mà bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội, là nguyên nhân gián tiếp gây ra tệ nạn xã hội và các tội phạm khác. Bản thân bị cáo nhận thức rõ tác hại của ma túy đối với bản thân và xã hội, nhưng chỉ vì để có ma túy thỏa mãn nhu cầu của bản thân, bị cáo đã bất chấp pháp luật và dư luận xã hội, để thực hiện hành vi phạm tội.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân; bị cáo có bố đẻ là ông Hoàng Văn S1 được Nhà nước tặng huân chương kháng chiến hạng nhất, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[7] Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, xét thấy có nhân thân tốt, tuy nhiên bị cáo sử dụng ma túy đã nhiều năm, điều này thể hiện bị cáo thiếu tu dưỡng, rèn luyện bản thân.

[8] Trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, xét thấy cần thiết xử phạt cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục và phòng ngừa chung.

[9] Về hình phạt bổ sung: Theo biên bản xác minh ngày 03/11/2023 của Cơ quan điều tra và qua xét hỏi công khai tại phiên tòa sơ thẩm thấy rằng: Bị cáo không có thu nhập ổn định; không có tài sản có giá trị, vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[10] Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy khối lượng ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong một phong bì và toàn bộ các vỏ bao gói; là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành và vật không sử dụng được. Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA JUPITER biển kiểm soát 12K8 – 03** là của chị Trần Thị Hồng N2 cho bị cáo mượn, chị Trần Thị Hồng N2 không biết bị cáo sử dụng xe để đi mua ma túy, cơ quan điều tra đã trả xe cho chủ sở hữu chị Trần Thị Hồng N2 là phù hợp với quy định của pháp luật.

[11] Trách nhiệm bồi thường thiệt hại; vấn đề dân sự trong vụ án hình sự:

Không có yêu cầu nên không xem xét.

[12] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng, hình phạt, xử lý vật chứng, án phí, đề nghị của bị cáo về hình phạt, phù hợp với nhận định và quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[13] Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo, do bị cáo không biết họ tên, địa chỉ, cơ quan điều tra không làm rõ được nên không có căn cứ xử lý trong vụ án này.

[14] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo là người bị kết án phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào ngân sách Nhà nước. Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm c khoản 1 Điều 47, Điều 50, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Căn cứ vào điểm a, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136, khoản 1 Điều 292, Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hoàng Thế K1 phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Hoàng Thế K1 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ là ngày 20 tháng 9 năm 2023.

3. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy: Khối lượng ma túy còn lại sau giám định (0,138 gam chất ma túy Heroin) được để trong 01 (một) phong bì niêm phong có chữ “QT Hoàng Thế K1” và toàn bộ các vỏ bao gói.

(Vật chứng đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Lạng Sơn theo Biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 14/12/2023).

4. Về án phí: Bị cáo Hoàng Thế K1 phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào ngân sách Nhà nước.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

20
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 01/2024/HS-ST

Số hiệu:01/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Văn Lãng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về