TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HOÁ - TỈNH THANH HOÁ
BẢN ÁN 01/2023/HS-ST NGÀY 25/10/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 25 tháng 10 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 10/2023/TLST-HS ngày 04 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2023/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 10 năm 2023 đối với các bị cáo:
1. Trần Văn T1, sinh năm 1972 tại Thanh Hóa; nơi thường trú: Phố C, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Văn M (đã chết) và bà Nguyễn Thị K; có vợ là Nguyễn Thị D và 02 con; tiền án, tiền sự: không; nhân thân:
- Ngày 28/5/2010, tại bản án số 100/2010/HSST, Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 24 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;
- Ngày 28/5/2014, tại bản án số 140/2014/HSST, Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 30 tháng về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/6/2023 đến ngày 29/6/2023 chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang bị giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố T, có mặt tại phiên tòa.
2. Đào Văn L, sinh năm 1982 tại Thanh Hóa; nơi thường trú: Phố C, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đào Mộng C (đã chết) và bà Nguyễn Thị V; tiền án: tại bản án số 40/2020/HS-ST ngày 20/8/2020, Tòa án nhân dân thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 15 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt từ ngày 18/7/2021; tiền sự: không.
Nhân thân:
- Ngày 04/10/2005, Công an thành phố T, tỉnh Thanh Hóa xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”;
- Ngày 21/4/2006, tại bản án số 34/2006/HSPT, Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa xử phạt 09 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”;
- Ngày 29/8/2013, tại bản án số 234/2013/HSST, Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 27 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;
- Ngày 25/7/2019, Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời gian 24 tháng.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/6/2023 đến ngày 29/6/2023 chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang bị giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố T, có mặt tại phiên tòa.
3. Nguyễn Thị D, sinh năm 1974 tại Thanh Hóa; nơi thường trú: Phố C, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn M1 (đã chết) và bà Trần Thị S (đã chết); có chồng là Trần Văn T1 và 02 con; tiền án, tiền sự: không;
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/6/2023 đến ngày 29/6/2023 chuyển tạm giam, Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố T, có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 11h30’ ngày 20/6/2023, Tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy- Công an thành phố T phối hợp cùng Công an phường Đ, thành phố T tiến hành tuần tra khu vực trạm bơm, đường H, phường Đ, thành phố T, phát hiện Đào Văn L đang điều khiển xe máy điện không gắn biển kiểm soát, chở chị Nguyễn Thị T2, sinh năm 1982 trú tại Phố C, phường Đ, thành phố T, có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Tại chỗ, L tự giác giao nộp 01 gói nilong màu đen, kích thước (1x2) cm bên trong đều chứa chất bột màu trắng và khai nhận đây là H, L mua cất giấu để bán kiếm lời và số ma túy này L mua của Nguyễn Thị D với giá 200.000 đồng. Tổ công tác đã tuyên bố bắt quả tang đối với Đào Văn L.
Tại cơ quan điều tra, Đào Văn L khai nhận: Trưa ngày 20/6/2023, L dùng số điện thoại 0879164007 trao đổi với Nguyễn Thị D qua số điện thoại 0846140X hỏi mua ma túy. Đến khoảng 11h cùng ngày, D gọi điện thoại lại thống nhất bán gói ma túy Heroine cho L với giá 200.000 đồng. Sau đó D đi bộ đến nhà L giao gói ma túy cho L và nhận số tiền 200.000 đồng. Mua được ma túy, L mang vào nhà vệ sinh mở ra kiểm tra bên trong rồi gói lại bằng nilong màu đen, kích thước (1x2) cm cất trong người để có ai mua thì bán với giá 500.000 đồng, L chưa kịp bán thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra bắt quả tang và thu giữ gói ma túy nêu trên, 01 điện thoại di động màu đen nhãn hiệu ACE, 01 xe máy điện không gắn biển kiểm soát. Khoảng 14h30 ngày 20/6/2023, sau khi biết tin Đào Văn L bị bắt, Nguyễn Thị D đến Công an thành phố T để đầu thú về hành vi Mua bán trái phép chất ma túy và khai nhận: Vào khoảng 11h ngày 20/6/2023, trong lúc dọn nhà D nhặt được 01 gói nilong màu trắng, kích thước (1x1) cm bên trong chứa ma túy Heroine dưới gầm giường ngủ của chồng là Trần Văn T1, biết là ma túy Heroine của chồng để sử dụng nên D cất vào người nhằm mục đích bán kiếm lời. Khi L điện thoại hỏi mua ma túy D đã bán cho L gói ma túy với giá 200.000 đồng.
Hồi 16h10 cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T khám xét khẩn cấp nhà ở của Nguyễn Thị D ở phố C, phường Đ, thành phố T. Quá trình khám xét, Trần Văn T1 đã tự giác lấy 01 gói giấy kích thước khoảng (1x2) cm bên trong chứa chất bột màu trắng để dưới gầm giường ngủ và 01 túi nilong màu trắng kích thước (5x10) cm chứa 10 gói nilong màu trắng kích thước mỗi gói (1x1) cm bên trong mỗi gói đều chứa chất bột màu trắng cất giấu trong tủ dưới phòng bếp giao nộp. Ngoài ra, khi khám xét Công an còn thu giữ được ở kệ gỗ phòng bếp 01 túi nilong màu trắng, chứa 61 gói nilong màu trắng kích thước mỗi gói khoảng (1x1) cm bên trong mỗi gói đều chứa chất bột màu trắng. T1 khai tất cả chất bột màu trắng là Heroine.
Tại Cơ quan điều tra Trần Văn T1 khai nhận: Sáng ngày 10/6/2023, T1 đi bộ một mình ra khu vực bụi tre trước nhà thì nhặt được 01 túi nilong màu trắng bên trong có các gói nilong màu trắng kích thước (1x1) cm bọc bên trong là giấy chứa chất bột màu trắng, là H. Tám chia nhỏ số ma túy trên cất giấu trong nhà nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Cụ thể: T1 cất giấu trong tủ dưới phòng bếp một túi nilong màu trắng kích thước khoảng (5x10) cm chứa 12 gói ma túy Heroine và tại kệ gỗ phòng bếp 01 túi nilong màu trắng bên trong chứa 61 gói ma túy để sử dụng dần. Sáng ngày 20/6/2023, T1 lấy 01 gói ma túy trong túi nilong để trong tủ bếp cất vào gầm giường. Trưa cùng ngày, T1 lấy gói ma túy ra sử dụng nhưng không thấy nên đi vào tủ dưới phòng bếp lấy thêm 01 gói ma túy khác ra sử dụng hết một phần, còn lại gói để xuống gầm giường.
Tại Bản kết luận giám định số 2414/KL-KTHS ngày 26/6/2023 của Phòng K2 Công an tỉnh T kết luận:
“Cục bột màu trắng (thu giữ của L) niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,181gam, loại: Heroine;
Chất bột màu trắng đựng trong 10 gói nilong màu trắng niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 1,638gam, loại: Heroine;
Chất bột màu trắng đựng trong 01 gói giấy niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,187gam, loại: Heroine;
Chất bột màu trắng đựng trong 61 gói nilong màu trắng niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 10,822 gam, loại: Heroine”.
Quá trình điều tra, thu giữ của Nguyễn Thị D số tiền 200.000 đồng là tiền D bán ma túy cho L mà có.
Xe máy điện dán Decal màu trắng, màu sơn đỏ đen, không gắn biển số, số máy A17717000109, số khung DGGTHAZ04223. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T quyết định xử lý vật chứng trả lại cho chủ sở hữu là chị Nguyễn Thị T2.
Về nguồn gốc ma túy T1 tàng trữ, Cơ quan điều tra đã tiến hành rà soát nhưng không xác định được người cất giấu túi Heroine mà T1 nhặt được nên không có căn cứ xác minh, xử lý. Hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của T1, Cơ quan điều tra chuyển Công an thành phố xử lý hành chính.
Đối với Nguyễn Thị T2 không biết L mua ma túy của D, không biết việc L cất giấu ma túy để bán nên không có căn cứ để xử lý đối với Nguyễn Thị T2.
Với nội dung trên bản cáo trạng số 333/CTr-VKS ngày 02/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hóa truy tố bị cáo Trần Văn Tám về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự; các bị cáo Đào Văn L, Nguyễn Thị D về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự;
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo như bản cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ: điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Trần Văn T1; căn cứ khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Đào Văn L; căn cứ khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Thị D để tuyên bố bị cáo Trần Văn T1 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, bị cáo Đào Văn L, Nguyễn Thị D phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đề nghị xử phạt bị cáo T1 từ 07 năm tù đến 07 năm 06 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ; đề nghị xử phạt bị cáo L từ 36 tháng tù đến 42 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ; đề nghị xử phạt bị cáo D từ 27 tháng tù đến 30 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ.
Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: tịch thu nộp ngân sách nhà nước một điện thoại di động màu đen nhãn hiệu ACE thu của bị cáo L, một điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus và 200.000 đồng thu của bị cáo D; tịch thu tiêu hủy số ma túy thu của các bị cáo còn lại sau giám định.
Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật. Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung truy tố của cáo trạng và không có ý kiến tranh luận, lời nói sau cùng các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về nội dung vụ án:
Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận: Khoảng 11h30’ ngày 20/6/2023, tại khu vực Trạm bơm, đường H, phường Đ, thành phố T, Đào Văn L đã có hành vi cất giấu trong người 0,181gam Heroine để bán kiếm lời thì bị phát hiện bắt quả tang; vào khoảng 11 giờ ngày 20/6/2023, Nguyễn Thị D đã có hành vi bán trái phép 0,181gam Heroine cho Đào Văn L tại nhà L ở phố C, phường Đ, thành phố T lấy 200.000 đồng; Trần Văn T1 đã có hành vi tàng trữ trái phép 12,828gam Heroine tại nhà riêng ở Phố C, phường Đ, thành phố T để sử dụng thì bị khám xét thu giữ.
Lời khai của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét, thẩm tra tại phiên tòa, vì vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi nêu trên của bị cáo Trần Văn T1 có đủ dấu hiệu cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và khung hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự; hành vi nêu trên của bị cáo Đào Văn L và Nguyễn Thị D có đủ dấu hiệu cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội danh và khung hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự như đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3]. Hành vi phạm tội của bị cáo L và D là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo T1 là rất nghiêm trọng; các bị cáo có đủ nhận thức để biết rằng các loại ma túy là chất gây nghiện được nhà nước thống nhất quản lý, nghiêm cấm mọi hành vi phạm tội liên quan đến ma túy nhưng vì hám lời mà bị cáo L, bị cáo D vẫn cố ý mua bán trái phép chất ma túy, vì thỏa mãn nhu cầu cá nhân bị cáo T1 cố ý tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Mặt khác hành vi phạm tội của các bị cáo còn gây mất trật tự trị an tại địa phương và là một trong những nguyên nhân dẫn đến tội phạm và các tệ nạn xã hội khác nên cần phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật.
[4]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của các bị cáo, thấy rằng:
Tại bản án số 40/2020/HS-ST ngày 20/8/2020, bị cáo L bị Tòa án nhân dân thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 15 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 18/7/2021. Như vậy bị cáo L đã bị kết án chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng “tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra bị cáo L còn từng bị xét xử về tội “Trộm cắp tài sản”, “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và từng bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản, bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiệm bắt buộc nhưng bị cáo không lấy đây làm bài học để rèn luyện bản thân mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội thể hiện bị cáo là người rất coi thường pháp luật.
Bị cáo D, T1 phạm tội không phải chịu tình tiết năng tặng trách nhiệm hình sự. Nhưng bị cáo T1 là người có nhân thân xấu đã từng bị xét xử hai lần về tội mua bán trái phép chất ma túy.
Tuy nhiên quá trình điều tra, truy tố, xét xử các bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải. Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nên bị cáo D đã đến cơ quan Công an đầu thú, bị cáo T1 có bố là người có công với cách mạng, được nhà nước tặng Huy chương kháng chiến hạng nhì. Vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với cả ba bị cáo, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo D, bị cáo T1 để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo, để các bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật, yên tâm cải tạo sớm trở thành người công dân có ích cho xã hội.
Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội độc lập với nhau. Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của các bị cáo thấy cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian như vậy mới có tác dụng giáo dục đối với các bị cáo và đấu tranh phòng ngừa chung. Bị cáo L và bị cáo D đều mua bán trái phép 0,181gam Heroine nhưng bị cáo D nhân thân chưa có tiền án, tiền sự, được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hơn bị cáo L và không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự như bị cáo L. Vì vậy khi lượng hình, Hội đồng xét xử lên mức án cho bị cáo D thấp hơn bị cáo L là phù hợp và có căn cứ.
[5] Về xử lý vật chứng:
Một điện thoại di động màu đen nhãn hiệu ACE thu của bị cáo L, một điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus thu của bị cáo D, đây là điện thoại bị cáo L, bị cáo D sử dụng để liên lạc mua bán ma túy vì vậy căn cứ khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự để tịch thu nộp ngân sách Nhà nước hai chiếc điện thoại này.
Bị cáo D bán ma túy cho bị cáo L được số tiền 200.000 đồng, vì vậy căn cứ khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự để tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước số tiền này.
Toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì thư, hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hoá là vật cấm tàng trữ, cấm lưu hành vì vậy cần căn cứ khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự để tịch thu tiêu huỷ toàn bộ số ma túy này.
[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo L, D, T1 đều là lao động tự do, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự và khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo.
[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 6, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Trần Văn T1;
Căn cứ khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Đào Văn L;
Căn cứ khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Thị D;
Căn cứ khoản 1, điểm a, b khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 6, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn T1 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, bị cáo Đào Văn L, Nguyễn Thị D phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Xử phạt: Bị cáo Trần Văn T1 07 (bảy) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ là ngày 20/6/2023.
Xử phạt: Bị cáo Đào Văn L 36 (ba sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 20/6/2023.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị D 27 (hai bảy) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 20/6/2023.
Về vật chứng:
- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: số tiền 200.000 đồng, một điện thoại di động ACE, dạng bàn phím, số I: 350953914287566, bên trong lắp kèm sim, một điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus, số I: 359470084137332, bên trong lắp kèm thẻ sim - Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì của Phòng K2 Công an tỉnh T, có hình dấu của Phòng K2 kèm chữ ký, chữ viết của Nguyễn Trần Đ, Nguyễn Mạnh H1.
Toàn bộ vật chứng nêu trên hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa, theo biên bản giao nhận vật chứng số 05/2023//THA ngày 05/10/2023 giữa Công an thành phố T với Chi Cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa.
Bị cáo Trần Văn T1, Đào Văn L, Nguyễn Thị D mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, bị cáo có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7, Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 01/2023/HS-ST
Số hiệu: | 01/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/10/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về