TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ M, TỈNH Đ
BẢN ÁN 01/2023/HS-ST NGÀY 24/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 24 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã M, tỉnh Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 02/2023/TLST-HS, ngày 03/10/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2023/QĐXXST-HS ngày 02/11/2023 đối với bị cáo:
Điêu Văn Đ tên gọi khác: không; Sinh năm 1966, tại: thị xã M, tỉnh Đ. Nơi Đăng ký hộ khẩu thường trú: Bản Đ, phường N, thị xã M, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Nông nghiệp; Trình độ văn hóa: 02/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Điêu Văn S, sinh năm 1932; con bà: Lù Thị N, sinh năm: 1935; vợ: Điêu Chính Đ (đã chết); Bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm: 1998, con nhỏ sinh năm 2000; Tiền án: Không; Tiền sự: không; Nhân thân: Chưa bị kết án, chưa bị xử phạt hành chính. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/6/2023 cho đến nay, bị cáo có mặt tai phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào hồi 11 giờ 30 phút ngày 27/6/2023 tại nhà máy xử lý nước thải, thuộc địa phận bản X, phường N, thị xã M, tỉnh Đ, Công an thị xã Mường Lay bắt quả tang bị cáo Điêu Văn Đ, sinh năm 1966, thường trú tại bản Đ, phường N, thị xã M có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, vật chứng thu đươc 02 (Hai) gói giấy bạc của vỏ bao thuốc lá, bên trong chứa các chất bột màu trắng dạng nén nghi Heroine. Bị cáo Điêu Văn Đ đã bị bắt cùng toàn bộ vật chứng của vụ án.
Tai Cơ quan điều tra bị cáo Điêu Văn Đ khai nhận hành vi tàng trữ trái phép ma túy như sau: Vào khoảng 11 giờ 30 phút ngày 27/6/2023 bị cáo Điêu Văn Đ đi bộ từ nhà ở bản Đ, phường N, thị xã M đi xem ruộng ở khu vực bản X, phường N, thị xã M thì có gặp Nùng Văn T, sinh năm 1968 trú tại bản Đ, phường N, thi xã M. Bị cáo Đồng đã hỏi T “có ma túy không” T trả lời có, sau đó Đ đưa cho T một tờ tiền mệnh giá 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) T cầm tiền rồi đưa cho bị cáo Đ 02 gói giấy bạc màu vàng của vỏ bao thuốc lá bên trong chứa cục chất bột màu trắng dạng nén là Heroine. Sau khi mua được 02 gói Heroine bị cáo Đ cầm ở tay phải và tiếp tục đi xem ruộng, khi đi đến đoạn nhà máy xử lý nước thải thuộc bản X, phường N, thi xã M thì bị bắt quả tang. Vật chứng thu giữ của bị cáo Điêu Văn Đ có khối lượng 0,12 gam (không phẩy mười hai gam). Cơ quan điều tra trích 0,08 gam gửi giám định, không hoàn lại mẫu vât sau giám định.
Tại bản kết luận giám định số 1076/KL-PC09 ngày 04/07/2023 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Mẫu vật chứng gửi giám định, thu giữ của bị cáo Điêu Văn Đ là ma túy loại Heroine. Không hoàn lại mẫu vật sau giám định. Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, SST: 9, mục IA, danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018.
Tại bản cáo trạng số 14/CT-VKSML ngày 02/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã M, tỉnh Đ đã truy tố bị cáo Điêu Văn Đ về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.
Tại phiên tòa phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên xử bị cáo Điêu Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS.
Xử phạt bị cáo Điêu Văn Đ từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/6/2023.
Đề nghị HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 BLHS vì bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, không có khả năng thi hành. Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Đề nghị HĐXX xử lý vật chứng vụ án theo quy định của pháp luật.
Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình, bị cáo cũng không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát nhân dân về tội danh cũng như hình phạt; Lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến kiểm sát viên, lời khai của bị cáo có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1]. Về hành vi phạm tội:
Qua tranh tụng công khai tại phiên tòa: Vào khoảng 11 giờ 30 phút ngày 27/6/2023 trên đường đi bộ từ nhà ở bản Đ, phường N đến khu vực ruộng lúa của gia đình, bị cáo gặp và mua của Nùng Văn T, sinh năm 1968 trú tại bản Đ, phường N thi xã M 02 gói Heroine có khối lượng là 0,12 gam với giá 200.000đ, mục đích mua về để sử dụng. Sau khi mua được ma túy bị cáo tiếp tục đi xem ruộng đến đoạn nhà máy xử lý nước thải thuộc bản X, phường N, thi xã M thì bị bắt quả tang thu giữ toàn bộ vật chứng của vụ án.
Lời khai của bị cáo Điêu Văn Đ tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong xác đinh khối lượng; kết quả giám định phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ cũng như bản Cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố đối với bị cáo. Hành vi mua Heroine với mục đích để sử dụng của bị cáo nêu trên là nguy hiểm cho xã hội. Do vậy HĐXX đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Điêu Văn Đ phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.
[2]. Xét tính chất mức độ và hậu quả của tội phạm:
Tính chất của vụ án là nghiêm trọng, bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp chính sách độc quyền của Nhà nước trong lĩnh vực quản lý và sử dụng các chất ma túy, tiếp tay cho các loại tội phạm khác làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an trên địa bàn thị xã.
[3]. Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Bị cáo Điêu Văn Đ không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Trong giai đoạn điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Gia đình bị cáo có anh trai được tặng thưởng Huân chương chiến công hạng ba. HĐXX áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS cho bị cáo.
[4]. Về hình phạt chính: Ma túy gây tác hại nhiều mặt của đời sống xã hội, đồng thời nó cũng là nguyên nhân của nhiều loại tội phạm khác. Tình hình tội phạm về ma túy ngày càng phức tạp và diễn biến khó lường. Từ những phân tích ở các đoạn [1]. [2]. [3] và tại phiên tòa hôm nay đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Mường Lay đề nghị hình phạt tù đối với bị cáo từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là phù hợp có căn cứ để Hội đồng xét xử chấp.
[5]. Về hình phạt bổ sung:
Qua xác minh tài sản của cơ quan cảnh sát điều tra và qua tranh tụng tại phiên tòa cho thấy, gia đình bị cáo không có tài sản có giá trị; bị cáo không có thu nhập thường xuyên, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã M, tỉnh Đ đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của BLHS đối với bị cáo là phù hợp.
[6]. Về vật chứng vụ án: Số Heroine thu giữ của bị cáo là 0,12 gam Cơ quan điều tra đã trích 0,08 gam gửi giám định sau khi có kết quả giám định, Cơ quan giám định không hoàn lại mẫu sau giám định. Số Heroine còn lại là 0,04 gam HĐXX tịch thu tiêu hủy.
[7] Các vấn đề khác của vụ án:
Trong vụ án còn có Nùng Văn T theo lời khai của bị cáo là người bán ma túy cho bị cáo. Cơ quan điều tra đã xác minh, đối chất nhưng Nùng Văn T không thừa nhận việc đã bán ma tuý cho bị cáo, việc mua bán ma tuý giữa T và bị cáo Đ không có ai khác biết hoặc chứng kiến, do đó chưa chứng minh được việc mua bán ma túy giữa Nùng Văn T và bị cáo. Do vậy HĐXX không đặt vấn đề giải quyết trong vụ án này.
[8]. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Toà án ngày 30/12/2016, Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
[9]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38, điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
[1]. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Điêu Văn Đ phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
[2]. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Điêu Văn Đ 01 (Một) năm, 01 (Một) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27/6/2023.
[3]. Về vật chứng của vụ án: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ Luật tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy 0,04 gam (Không phẩy không bốn gam) Heroine vật chứng còn lại sau giám định. (Vật chứng đã được niêm phong và bàn giao sang Chi cục thi hành án dân sự thị xã Mường Lay. Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Mường Lay và Chi Cục thi hành án Dân sự thị xã Mường Lay ngày 05/10/2023).
[4]. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Toà án ngày 30/12/2016: Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
[5]. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo Điêu Văn Đ có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (24/11/2023).
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 01/2023/HS-ST
Số hiệu: | 01/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Mường Lay - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/11/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về