Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 01/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔ LƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 01/2023/HS-ST NGÀY 12/01/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 01 năm 2023 tại Trụ sở TAND huyện Đ, tỉnh N, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 125/2022/TLST-HS ngày 22 tháng 12 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 136/2022/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 12 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T, Sinh ngày 02 tháng 4 năm 1997 tại huyện Đ, tỉnh N. Nơi cư trú: Xóm 5, xã Trù Sơn, huyện Đ, tỉnh N; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn T, sinh năm 1975; con bà: Đào Thị L, sinh năm 1977; Vợ, con: Chưa có; Tiền án: Ngày 30/5/2022 bị TAND huyện Đ, Tỉnh N xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thử thách 24 tháng về tội “Buôn bán hàng cấm”, tại bản án số 33/2022/HSST ngày 30/5/2022, bị cáo đang chấp hành án và chưa được xóa án tích, tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/10/2022 cho đến nay, hiện đang tạm giam, có mặt tại phiên tòa.

*Người làm chứng:

1, Anh Đặng Văn T, sinh năm 1990; Trú tại: Xóm 03, xã Q, huyện Đ, tỉnh N (vắng mặt).

2. Anh Lê Hữu Dụng, sinh năm 1993; Trú tại: Xóm 1, xã Q, huyện Đ, tỉnh N. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 21 giờ ngày 27/10/2022, do có nhu cầu sử dụng ma túy (Methamphetamin) nên Nguyễn Văn T đi bộ từ nhà ra xin ngồi xe mô tô của người đi đường đi đến khu vực chợ Thượng Sơn thuộc xóm 6, xã Thượng Sơn, huyện Đ, tỉnh N, với mục đích mua ma túy về sử dụng, do trước đó T nghe bạn nghiện nói tại khu vực ngã tư chợ Thượng Sơn, huyện Đ, có người đàn ông nghiện ma túy thường có mặt tại đó bán ma túy. Tại đây, Nguyễn Văn T, thấy một người đàn ông không rõ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể, đeo khẩu trang y tế, đội mũ lưỡi trai giống mô tả của bạn nghiện nên T đi đến gặp và nói “anh có đồ không, bán cho em ít” ý của T là hỏi người này có ma túy hồng phiến không bán cho T một ít. Người đàn ông này nói “Lấy mấy”. T nói “Lấy em hai triệu” ý nói bán cho T 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) tiền ma túy Hồng phiến. Người đàn ông nói “Đưa tiền đây”. T đưa cho người này 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng). Người đàn ông cầm tiền và đưa lại cho T 01 (một) gói nhỏ ni lon màu xanh. Nguyễn Văn T cầm lấy gói ni lon biết bên trong đựng ma túy Hồng phiến nên cất vào túi quần phía trước bên phải rồi tiếp tục đi bộ theo hướng đến xã Q để tìm nơi sử dụng. Người đàn ông bán ma túy cho T xong đi đâu T không rõ. T đi bộ và xin ngồi nhờ xe mô tô của người đi đường đến Nhà nghỉ Q, thuộc xóm 1, xã Q, huyện Đ, tỉnh N, để thuê phòng nghỉ. Khi đến nhà nghỉ Q, T thuê phòng 204 để nghỉ. Sau khi thuê được phòng nghỉ, được một lúc thì phòng nghỉ bị mất điện và có tiếng gõ cửa yêu cầu mở cửa. Nguyễn Văn T, hoảng sợ nên đã mở cửa sổ phòng 204 ném gói ma túy mới mua ra ngoài xuống phía dưới mặt nước tại mảnh ruộng bên phải nhà nghỉ rồi ra mở cửa phòng nghỉ. Sau khi T mở cửa, lúc này vào hối 23 giừ 30 phút cùng ngày 27/102022, Lực lượng công an đã kiểm tra người và Phòng nghỉ 204 nơi T thuê nghỉ. Qua kiểm tra trên người và trong Phòng nghỉ 204 không phát hiện thu giữ đồ vật, tài liệu nào. Kiểm tra khu vực xung quanh phát hiện: Trên mặt nước, tại mảnh ruộng phía bên phải nhà nghỉ Q, vị trí cách chân tường nhà nghỉ Q khoảng 05 (năm) mét, phía dưới cửa sổ (cửa sổ đối diện cửa chính phòng nghỉ 204) thuộc nhà nghỉ Q, xóm 1, xã Q, huyện Đ, tỉnh N có 01 (một) gói ni lông màu xanh, kích thước (05 x 08)cm, bên trong đựng các viên nén hình trụ tròn màu hồng đã bị ướt. Nguyễn Văn T, khai nhận gói ma túy Công an thu giữ là của Nguyễn Văn T. Công an huyện Đ, tiến hành thu giữ và sấy khô kiểm đếm được 66 (Sáu mươi sáu) viên nén hình trụ tròn màu hồng là ma túy (Methamphetamine), tiến hành niêm phong vật chứng, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và đưa Nguyễn Văn T về trụ sở Công an huyện Đ để điều tra làm rõ. Tiến hành xét nghiệm ma túy đối với Nguyễn Văn T. Kết quả Nguyễn Văn T, dương tính ma túy Methamphetamine.

Vào hồi 03 giờ 00 phút ngày 28/10/2022 Cơ quan điều tra Công an huyện Đ, thành lập hội đồng mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định. Sau khi loại bỏ bao bì gói niêm phong thu giữ của Nguyễn Văn T, số viên nén hình trụ tròn thu giữ của Nguyễn Văn T, có tổng khối lượng 6,862 gam (Sáu phẩy tám trăm sáu mươi hai gam).Tại bản kết luận giám định số 1260/KL-PC09(Đ2- MT) ngày 05/11/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N Kết luận: Mẫu viên nén hình trụ tròn màu hồng thu giữ của Nguyễn Văn T, gửi tới giám định là ma túy (Methamphetamine). Số viên nén hình trụ tròn màu hồng thu giữ của Nguyễn Văn T, có khối lượng là 6,862 gam (Sáu phẩy tám trăm sáu mươi hai gam).

Vật chứng vụ án: Cơ quan điều tra thu giữ của Nguyễn Văn T 01 (Một) gói nhỏ bằng ni lon màu xanh, bên trọng có 6,862 gam là ma túy (Methamphetamine), đã lấy 0,328 gam ma túy (Methamphetamine) làm mẫu giám định; vật chứng còn lại là 01 phong bì thư đựng vỏ bao bì niêm phong ban đầu, vỏ bao ni lon, số viên nén màu hồng còn lại 6,534 gam (Sáu phẩy năm trăm ba mươi tư gam). Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ, đã chuyển giao đến kho vật chứng Cơ quan Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ để bảo quản.

Bản cáo trạng số 04/CT-VKS-ĐL ngày 22/12/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh N truy tố Nguyễn Văn T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm g khoản 2 điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh N giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nên giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Áp dụng điểm g khoản 2 điều 249;

điểm s khoản 1, 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 56, Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 06 năm đến 07 năm tù. Tổng hợp Tổng hợp hình phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo tại bản án số 33/2022/HSST ngày 30/5/2022 của TAND huyện Đ, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của hai bản án là từ 07 năm đến 08 năm tù.

Miễn hình phạt phụ là phạt tiền cho bị cáo. Xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo nhất trí về tội danh, khung hình phạt, không tranh luận gì thêm và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về sự vắng mặt của người làm chứng: Tại phiên tòa người làm chứng vắng mặt nhưng xét thấy họ đã có lời khai đầy đủ và không ảnh hưởng tới quá trình xét xử vụ án. Căn cứ vào các Điều 293, 299 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử thống nhất vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[3] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa kết luận: Có đủ cơ sở kết luận Nguyễn Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm g khoản 2 điều 249 Bộ luật hình sự.

Hội đồng xét xử nhận thấy: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay là hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, được chứng minh bằng Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ được, kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N, đủ cơ sở kết luận: Vào hồi 23 giờ 30 phút ngày 27/10/2022, tại phòng 204 Nhà nghỉ Q thuộc xóm 1, xã Q, huyện Đ, tỉnh N. Bị cáo Nguyễn Văn T đã có hành vi tàng trữ trái phép 66 viên nén hình trụ màu hồng có khối lượng 6,862 gam ma túy (Methamphetamine) mục đích sử dụng thì bị bắt giữ. Như vậy hành vi của Nguyễn Văn T đã đủ yếu tố cấu thành tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" được quy định tại Điểm g Khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[4] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo: Đây là vụ án thuộc loại rất nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm trật tự trị an xã hội, gây hoang mang dao động trong quần chúng nhân dân, làm ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của nhân dân, gây tâm lý bất an trong xã hội, bị cáo Nguyễn Văn T được gia đình cho ăn học đến lớp 12/12 nhưng không tu chí làm ăn đua đòi nghiện gập nên bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Bị cáo Nguyễn Văn T có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đó là phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Cần phải lên cho bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới đủ tác dụng cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên cũng cần xem xét bị cáo sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo có ông nội là người có công với cách mạng được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhì. Đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, 2 điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng để giảm nhẹ phần nào hình phạt cho bị cáo thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

Với các nhận định trên, cần xét xử bị cáo nghiêm minh, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục cải tạo bị cáo. Do bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội trong thời gian thử thách của bản án trước nên cần áp dụng khoản 5 Điều 65; Điều 56 Bộ luật hình sự. Tổng hợp hình phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo tại bản án số 33/2022/HSST ngày 30/5/2022 của TAND huyện Đ, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của hai bản án.

[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù bị cáo còn có thể bị phạt tiền hoặc tịch thu tài sản, nhưng qua xác minh của cơ quan điều tra thì bị cáo là đối tượng nghiện ma tuý, tài sản riêng không có gì đáng giá vì vậy không áp dụng hình phạt tiền hoặc tịch thu tài sản đối với bị cáo.

[6] Trong vụ án này, có đối tượng T khai đã bán ma tuý cho bị cáo tại khu vực chợ thuộc địa phận xóm 6, xã Thượng Sơn, huyện Đ, tỉnh N. Cơ quan điều tra đang tiến hành điều tra làm rõ khi có đủ căn cứ sẽ xử lý bằng một vụ án khác.

[7] Về vật chứng và xử lý vật chứng: 01 phong bì thư màu trắng của Công an huyện Đ, kích thước 17x23 cm đã niêm phong bên trong có chứa: vỏ phong bì niêm phong ban đầu, 01 (Một) vỏ bao nilon màu xanh, số viên nén màu hồng là ma túy Methamphe tamine còn lại có khối lượng 6,534g. Đây là vật cấm lưu thông và không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy;

[8] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Các đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ tại phiên tòa về việc giải quyết toàn bộ vụ án là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Nguyễn Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 5 Điều 65; Điều 56 Bộ luật hình sự. Xử phạt: bị cáo Nguyễn Văn T 07 (Bảy) năm tù. Tổng hợp hình phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo tại bản án số 33/2022/HSST ngày 30/5/2022 của TAND huyện Đ, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 08 (Tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo (28/10/2022) nhưng được trừ thời gian tạm giữ của bản án trước từ ngày 05/01/2022 đến ngày 14/01/2022) 2. Về vật chứng và xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì thư màu trắng của Công an huyện Đ, kích thước 17x23 cm đã niêm phong bên trong có chứa: vỏ phong bì niêm phong ban đầu, 01 (Một) vỏ bao nilon màu xanh, số viên nén màu hồng là ma túy Methamphe tamine còn lại có khối lượng 6,534g (Vật chứng trên có tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/12/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ và Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ).

3. Về án phí: áp dụng Khoản 2 Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo Nguyễn Văn T có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh N trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

31
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 01/2023/HS-ST

Số hiệu:01/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đô Lương - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về